http://vietminhtam.blogspot.com

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

Nỗi buồn mang tên Việt Nam!

Nỗi buồn mang tên Việt Nam!
(Người viết Đạo diễn Song Chi)

Tôi biết rằng đối với tôi và những người bạn đã tham gia cuộc biểu tình tưởng niệm 34 năm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc ngày 19.1.2008 (19.1.1974-19.1.2008) -một cuộc biểu tình ngắn ngủi trước khi bị dập tắt nhanh chóng, nỗi buồn lớn nhất, sự chua xót lớn nhất đó là vì sao chúng ta không được phép lên tiếng? Nỗi buồn đó tôi cũng đã đọc thấy trong những đôi mắt ngơ ngác của những em sinh viên học sinh trong những ngày 9.12, 16.12 vừa qua khi những cuộc biểu tình của sinh viên học sinh và một số văn nghệ sĩ phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc xâm lược Trường Sa, Hoàng Sa đã bị cản trở, làm khó dễ và sau đó là đủ mọi biện pháp đã được áp dụng để ngăn chặn ngay từ đầu. Vì sao? Vì sao chúng ta không được phép lên tiếng ngay cả khi lẽ phải thuộc về dân tộc ta? Có những lúc tình cờ đôi mắt ngơ ngác của một em sinh viên nào đó rơi trúng vào tôi, tôi nhìn thấy nỗi buồn trong đôi mắt em như em cũng đọc thấy sự chua xót trong tôi, và càng chua xót hơn nữa là cả hai cùng có câu trả lời nhưng thể nói lên lời. Thôi em ơi hãy về nhà lo học hành, làm một đứa con ngoan của ba mẹ thậm chí không lo học hành cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian và tuổi trẻ của chính mình, tham gia vào mấy chuyện này làm gì không có lợi. Còn tôi ơi tôi cũng nên đi về nhà làm công việc của mình lo kiếm tiền lo kiếm danh, tham gia vào mấy chuyện này làm gì không có lợi.Chính cách sử sự của Nhà Nước VN trong suốt những ngày qua đã làm cho bất cứ người dân Việt Nam nào nếu còn quan tâm đến vận mệnh đất nước đều cảm thấy chua xót, cay đắng, nhục nhã. Đồng thời, những ai nếu còn rơi rớt chút ngây thơ do đã được giáo dục theo kiểu một chiều, bưng bít thông tin quá lâu, ắt hẳn cũng tỉnh ngộ ra ít nhiều. À thì ra ngay cả biểu tình bộc lộ lòng yêu nước và là một phản ứng tối thiểu cần phải có của một dân tộc trước họa xâm lăng rành rành trước mắt của một nước khác mà còn “không được phép”, còn bị ngăn cấm thì hy vọng gì biểu tình để phản kháng trước bất cứ chuyện gì là nguyên nhân gây nên sự phi lý, bất công trong xã hội, hoặc đụng chạm đến quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong xã hội, hoặc kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước và có hại cho vận mệnh của quốc gia, của dân tộc…? Trong những ngày này, trái tim của bao người Việt Nam đang rỉ máu. Nỗi đau bị cướp đất cướp biển ngay trước mắt, nỗi lo họa xâm lăng lâu dài, nhưng đau đớn hơn là thái độ hèn nhát đến không hiểu nổi của chính quyền và sự vô cảm, dửng dưng của rất nhiều người cùng là đồng bào với mình. Có một điều nghĩ cũng lạ lùng, bao nhiêu năm qua, máu xương của dân tộc này đã phải đổ xuống quá nhiều, và những vết thương trong lòng người còn nhiều hơn, một dân tộc như vậy lẽ ra phải ngộ ra, tỉnh ra với một lực phản tỉnh cực kỳ mạnh mẽ để không được phép sai lầm nữa. Vậy mà…chưa bao giờ trong lịch sử, những người lãnh đạo đất nước lại hèn nhát, bảo thủ đến cùng như lúc này-thà mất nước chứ nhất định không chịu từ bỏ con đường sai, không chịu mất quyền lực, và chưa bao giờ mỗi lần con số ít ỏi những người dân Việt dám cất lên tiếng nói lương tâm lại cảm thấy cô đơn, lẻ loi giữa cộng đồng và bất lực như lúc này!

Nếu nói tính cách của con người làm nên số phận thì tính cách của một dân tộc cũng tạo nên số phận của chính dân tộc đó. Dân tộc tôi, bất hạnh thay, là một dân tộc cạn nghĩ, cục bộ, hay chia rẽ, lại thêm chưa hề được hưởng một nển dân chủ thực sự bao giờ nên cũng chưa hề biết sử dụng đúng nghĩa quyền công dân và quyền làm người của mình. Dân tộc tôi, bất hạnh thay, trong mọi lĩnh vực đểu hiếm hoi người tài, chính trị cũng vậy, không có nổi ít nhất một nhân vật biết (hoặc dám) chọn một con đường đi khôn ngoan hơn rộng rãi hơn cho dân tộc, biết (hoặc dám) đặt vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc lên trên quyền lợi của một giai cấp một đảng phái.

Vậy cho nên em ơi hãy về nhà lo học hành hoặc không học hành thì cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian tuổi trẻ của em. Còn tôi thì đi làm công việc của mình lo bon chen kiếm chút tiền kiếm chút danh như phần đông những người khác đang sống quanh tôi. Bởi vì nếu em hay tôi hay bạn bè tôi còn tiếp tục bức xúc muốn lên tiếng muốn bày tỏ thái độ công dân lòng yêu nước hay bất cứ một cảm xúc nào khác, sẽ nhận được gì chúng ta đều biết trước. Nhưng sự cay đắng lớn nhất nhiều khi không phải từ những gì chúng ta phải nhận từ phía chính quyền mà từ những người chung quanh.Người ta sẽ nhìn chúng ta như những kẻ rỗi hơi thừa giờ đi làm những việc tào lao, những kẻ thiếu khôn ngoan hoặc cố tình lập dị, hoặc bất tài, thất bại, có điều gì bất mãn cá nhân nên đâm ra bất mãn xã hội, còn nếu ta không thất bại mà lại có chút thành đạt trong công việc của mình, thậm chí thuộc loại có tiền thì chắc là…muốn chơi trội để gây chú ý! Người ta sẽ khuyên chúng ta thôi hãy lo làm việc của mình đi, nếu chưa có bằng cấp thì lo đi kiếm cái bằng đi nếu chưa có tài sản thì lo đi kiếm tiền đi nếu chưa có gia đình thì lo đi lấy vợ lấy chồng đi, làm gì cũng đựơc, chuyện lớn đã có Nhà Nước lo.

Điều gì sẽ xảy ra với một dân tộc đã quen được giáo dục để suy nghĩ theo một chiều, quen sống trong bạc nhược, sợ hãi, luôn luôn tự biên tập, tự kiểm duyệt chính mình, chỉ muốn an thân, gần như vô cảm trước mọi chuyện đang xảy ra ngay trên đất nước mình, mất lòng tin vào mọi thứ và chia rẽ, nghi kỵ lẫn nhau? Điều gì sẽ xảy ra với một dân tộc mà trong xã hội những sự vô lý bất công bất bình thường nhất cũng trở thành bình thường còn điều tốt đẹp, sự tử tế, tính trung thực, lòng dũng cảm lại trở thành hiếm hoi? Điều gì sẽ xảy ra với một dân tộc mà ngay cả khi lòng tự cường, tinh thần tự tôn vừa mới được nhen nhúm đã lại bị vùi dập phũ phàng?

Thôi mà em ơi nghĩ đến những chuyện đó làm gì hãy về nhà lo học hành hoặc không học hành thì cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian tuổi trẻ của em. Còn tôi thì đi làm công việc của mình lo bon chen kiếm chút tiền kiếm chút danh sống đời yên ấm, rồi nếu có bức xúc lắm chuyện xã hội thì ta có thể chửi đổng trong những buổi ngồi quán café quán nhậu với bạn bè, chửi như thế vừa hả tức vừa được tiếng quan tâm đến xã hội mà lại không thiệt hại gì, ta cũng có thể tha hồ nói về dân chủ nhân quyền tự do trong những cuộc nhậu, nói thôi và đừng làm gì hết.

Nhưng…liệu em và tôi có sẽ chấp nhận sống như thế không? Song Chi

dân chủ và một số phong trào tự xưng đấu tranh dân chủ gần đây

Sau Cải cách ruộng đất 1950, miền Bắc Việt nam đã nhen nhóm những tiếng nói đòi quyền tự do trong đời sống xã hội, như Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm nhưng đã thất bại. Sau đó, do điều kiện chiến tranh Việt Nam, vấn đề dân chủ không được đưa ra tại miền Bắc [cần dẫn nguồn]. Sau 1975, khi đất nước thống nhất, cả nước theo Chủ nghĩa Xã hội, một số phong trào chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn còn tại miền Nam, do các cá nhân của chế độ Việt nam công hòa thực hiện, tuy vậy tất cả đều thất bại. Đặc biệt là bắt đầu từ quá trình "mở cửa", "đổi mới" được bắt đầu 1985-1986, phong trào đấu tranh đòi dân chủ trong nước bắt đầu nhen nhóm. (Phong trào Phạm Quế Dương, Trần Độ). Đặc biệt, khi chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới bị sụp đổ, phong trào xét lại bắt đầu hình thành. Nhiều câu hỏi đặt ra như: "tại sao chủ nghĩa xã hội lại sụp đổ?", "ưu điểm của dân chủ tư bản chủ nghĩa?" [cần dẫn nguồn].
Chỉ số dân chủ 2008 do The Economist đánh giá. Những nước có mầu tối là độc tài. Hầu hết các chế độ độc tài là ở Châu Phi và Châu Á

Tại Việt nam, với sự mở cửa cho các luồng thông tin đưa vào, sau khi Việt Nam ký kết Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Chương trình hành động Vienna 1993, Việt Nam tiến hành sửa đổi Hiến Pháp (1992), công nhận các quyền con người theo thỏa thuận đã ký.

* Phong trào Trần Độ: Trung tướng Trần Độ nguyên là Trưởng Ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương. Từ năm 1991 cho đến khi mất vào tháng 8/2002, ông Trần Độ được coi là nhân vật bản lề của phong trào đòi dân chủ, góp phần vào việc nuôi dưỡng phong trào cùng với các ông Hoàng Minh Chính, Phạm Quê Dương, Nguyễn Thanh Giang. Theo Trần Độ "nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng". Ông kêu gọi: "Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ "hiệp thương" mà thực chất là gò ép".

* Phong trào Boxit Việt Nam: của một số trí thức yêu cầu Chính phủ từ bỏ dự án Bauxit Tây Nguyên và Đảng Cộng sản tiến hành cải cách, dân chủ hơn, lắng nghe nhân sĩ trong và ngoài nước khi tiến hành lãnh đạo. Đây là sự phản kháng trước một số vấn đề nổi cộm hiện nay của Đảng lãnh đạo và Chính phủ quản lý (bao gồm: dự án Bô xít, dự án Đướng Sắt cao tốc Bắc Nam, vụ Vinashin,...). Website của Bauxit Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi chủ biên.
* Khối 8406: gồm một số cá nhân tổ chức ra phong trào đòi đa đảng, dân chủ nghị viện. Khối 8406 là tên gọi của một nhóm hoạt động chính trị, tự nhận là những người kêu gọi cho dân chủ tại Việt Nam. Tên "Khối 8406" xuất phát từ tuyên ngôn công bố ngày 8 tháng 4 năm 2006 của nhóm. Chính phủ Việt Nam cho rằng hoạt động của nhóm này vi phạm pháp luật Việt Nam và đã kết án một số thành viên, trong đó có Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân.
* CLB Nhà báo tự do: một số cá nhân tổ chức ra câu lạc bộ nhà báo tự do, cổ vụ tự do ngôn luận. Một số thành viên chủ chốt gồm Blogger Điếu Cày, AnhbaSG, Tạ Phong Tần,... [cần dẫn nguồn]
* Phong trào Boxit Việt Nam: của một số trí thức yêu cầu Chính phủ từ bỏ dự án Bauxit Tây Nguyên và Đảng Cộng sản tiến hành cải cách, dân chủ hơn, lắng nghe nhân sĩ trong và ngoài nước khi tiến hành lãnh đạo. Đây là sự phản kháng trước một số vấn đề nổi cộm hiện nay của Đảng lãnh đạo và Chính phủ quản lý (bao gồm: dự án Bô xít, dự án Đướng Sắt cao tốc Bắc Nam, vụ Vinashin,...). Website của Bauxit Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi chủ biên.
* Đảng Dân chủ Việt Nam (XXI): do ông Hoàng Minh Chính tuyên bố khôi phục 2006 nhưng hoạt động không có hiệu quả do không huy động được sự ủng hộ, ông Hoàng Minh Chính cũng không có tiếng nói, đồng thời do sự cấm đoán trong nước (Trung trong vụ Lê Công Định cũng là thành viên của Đảng này?). [19]
* Tập hợp Thanh niên dân chủ: do Nguyễn Tiến Trung thành lập, gồm một số thanh niên trong và ngoài nước tập hợp kêu gọi dân chủ tại Việt nam. Họ cho rằng nước Việt Nam vẫn chưa có dân chủ và nhân quyền, do đó họ quyết tâm vươn tới mục tiêu tối hậu được họ tuyên bố là thúc đẩy dân chủ hóa đất nước.
* Các đảng phái ngoài nước: chủ yếu do giới Việt Kiều tổ chức. Ủy ban Phối hợp Hành động vì dân chủ là Ủy ban phối hợp ngoài nước một số Đảng phái đòi dân chủ. Bốn thành viên thuộc Ủy ban gồm đảng dân chủ Nhân dân, Phong trào Lao Động Việt, Tập hợp vì Công lý và đảng Việt Tân. "Người Việt hải ngoại tuy có nhiều ý kiến về tiến trình dân chủ cho Việt Nam, nhưng thiếu một sự thống nhất tư tưởng, thiếu một lộ trình và các điều kiện đánh giá cụ thể."[20]
* Các phong trào tôn giáo: Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, (cần bổ sung thêm)
* Các tổ chức phi chính phủ: một số tổ chức phi chính phủ cổ vũ cho dân chủ tại Việt nam bao gồm: "Que Me: Action for Democracy in Vietnam" do Thích Quảng Độ là một thành viên chính.

Phong trào riêng lẽ của các Blogger: một số blogger được nhiều người biết như Lê Công Định, Trần Đông Chấn,... Các phong trào này nhỏ lẻ, thường bị sự phá hoại của các tin tặc. Nhiều blogger bị bắt và bị buộc các tội khác nhau.

Có sự mâu thuẫn nghi kỵ giữa những phong trào tự xưng đấu tranh dân chủ ngoài nước (do một số Việt Kiều, mà chủ yếu là những người thuộc thời trước 1975) và những phong trào do các cá nhân xuất phát từ trong nước. Điều này càng làm chia rẽ, suy yếu phong trào ở Việt nam. {{fact}

Phong trào "dân chủ" Việt nam tuy vậy đã có những thành quả nhất định. Chính phủ Việt Nam dần nới lỏng một số quyền con người nhất định. [cần dẫn nguồn] Trong Quốc hội, đã bắt đầu có những tiếng nói phản biện, nghi ngại về hiệu quả hoạt động của chính phủ. Đặc biệt sau những vấn đề trong quản lý của Chính phủ (vụ Vinashin, vụ cho thuê rừng, vụ tham nhũng PCI,...), có nhiều tiếng nói của đại biểu yêu cầu thay đổi cơ chế quản lý độc quyền hiện nay trong kinh tế. Lần đầu tiên một đại biểu quốc hội yêu cầu Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ, yêu cầu Chính phủ xin lỗi nhân dân. [21]

Trước đó, lần đầu tiên Quốc hội bỏ phiếu bác bỏ một dự thảo Xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam của chính phủ, vốn đã được nói là nghị quyết của Bộ Chính trị.

Một số báo trong nước đã có tiếng nói yêu cầu Đảng Cộng sản Việt Nam đổi mới, mở rộng dân chủ trong và ngoài Đảng, trong bầu cử, trong lựa chọn lãnh đạo, trong ra quyết định. [22]Một số báo vạch rõ nguy cơ của việc thiếu dân chủ, [23]dân chủ hình thức [24], yêu cầu có Luật riêng chế tài Đảng. Một loạt trí thức cao cấp ký vào đơn Đề nghị dừng dự án Bauxite Tây Nguyên, trong đó đứng đầu là Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình[25]. Các tin tức nhận định về dân chủ trở nên phổ biến trên mạng internet, dù Chính phủ Việt Nam có nhiều nỗ lực ngăn chặn, với lý do "chống các thế lực thù địch", "chống Diễn biến hòa bình.

Nguyên chủ tích Quốc hội Nguyễn Văn An khuyến nghị đổi mới hệ thống chính trị, nêu rõ "chưa thật dân chủ trong Đảng, cũng chưa thật dân chủ trong dân, còn mang nhiều tính hình thức, thụ động, dân ít quan tâm". Ông kêu gọi tránh Đảng trở thành "Đảng là vua. Không phải là một ông vua như thời phong kiến mà là vua tập thể thời CH XHCN".[26]

Đại sứ Thụy Sỹ Jean-Hubert Lebet thay mặt cho Canada, Na Uy và New Zealand và nước mình, bày tỏ lo ngại mức độ đói nghèo "đang thực sự tăng" ở một số dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa. Ông Lebet nhấn mạnh về "tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền tự do bày tỏ ý kiến và tiếp cận thông tin không nên bị cản trở trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi dần sang nền kinh tế tri thức". Các nhà quan sát nói rằng có đợt trấn áp mới đang được tiến hành đối với các blogger và các nhà hoạt động vì căng thẳng chính trị tăng cao trước Đại hội Đảng.

Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

Cười ra nước mắt vụ “chị hàng xén bị rêu rao có nốt ruồi vùng kín

Cười ra nước mắt vụ “chị hàng xén bị rêu rao có nốt ruồi vùng kín”
Cập nhật: 17.12pm 12-12-2011 / Báo: anninhthudo.vn / Trong : Xã hội | Xem trang gốc

ANTĐ -Anh L cho rằng, trong ba năm qua mình đã “ngủ” với chị hàng xén tới bốn lần. Để chứng minh “tui nói thiệt”, anh khẳng định: “Ở “chỗ kín” của chị ấy có một nốt ruồi. Tui đề nghị tòa cho đi giám định...”
Cách đây gần 15 năm, các cơ quan tố tụng đã “đau đầu” khi giải quyết vụ án đòi bồi thường danh dự nhân phẩm đầu tiên ở Việt Nam. Theo đó, chị V (ngụ tại khu vực chợ Nang, xã Quảng Vinh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) kiện anh L (cùng ngụ địa chỉ nêu trên) vì đã đi “rêu rao” khắp nơi từng có quan hệ bất chính với chị...

Rêu rao chuyện chăn gối giữa chợ đông
Khoảng giữa năm 1997, người dân ở khu vực chợ Nang liên tục nghe những tin đồn với nhiều tình tiết li kỳ về việc anh L đã quan hệ tình dục với chị V là một phụ nữ nhan sắc làm nghề bán hàng xén ở chợ. Khắp khu chợ, nhiều người tới không phải để mua bán mà chỉ để nghe câu chuyện “chả nem” của hai người đã yên bề gia thất.
Nhiều người dân ở địa phương cho biết, trước đó anh L và vợ chồng chị V có mối quan hệ rất thân thiết, lúc rảnh rỗi thường đi chơi, đi hát karaoke, dự tiệc với nhau. Ngay cả khi gia đình chị hàng xén mở tiệc cũng đều mời anh L đến dự cùng với nhiều bạn bè khác.
Cũng chính vì mối quan hệ thân tình đó đã khiến vợ anh L nghi ngờ chồng đã “tòm tem” với chị hàng xén. Nổi máu ghen, vợ anh đã đến chợ Nang để gây sự với chị V. Tại đây, hai bên đã cãi cọ, chửi bới rồi lao vào đánh nhau gây náo loạn cả khu vực. Sau vụ đánh ghen ầm ĩ này, chị V đã kiện vợ anh L ra tòa để đòi bồi thường sức khỏe. Tháng 7/1997, TAND huyện Quảng Điền đã thụ lý giải quyết dứt điểm vụ việc nêu trên.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Tưởng chuyện “thù oán” giữa hai bên đã được giải quyết, thế nhưng không ai ngờ một vài hôm sau, anh L đi khắp xóm làng phao tin việc mình đã từng quan hệ tình dục với chị V. Anh này còn “khoe như đúng rồi”: “Ngủ với cô ấy thiệt là… trên cả tuyệt vời”.

Chẳng mấy chốc, tin “động trời” này lan truyền khắp địa phương. Đi đâu cũng thấy người dân “túm năm tụm ba” bàn tán chuyện “trai trên gái dưới” của “cặp đôi” này: “Này, có biết ông ấy ngủ với cô hàng xén mấy lần không?”. “Nghe thằng L nói con ấy “đã” lắm”… Trước những lời xì xào, bàn tán của bà con xóm giềng, vợ chồng chị V thường xuyên xảy ra cãi vã, nguy cơ tan vỡ hạnh phúc gia đình. Chị hàng xén bèn gửi đơn ra tòa kiện anh L đòi bồi thường danh dự nhân phẩm.
Oái oăm đề nghị giám định nốt ruồi “chỗ kín”
Câu chuyện “tai tiếng” ở vùng quê này càng trở nên “nóng” hơn, khi vào ngày 24/9/1997, hàng trăm người dân hiếu kỳ bỏ cả công việc để đến TAND huyện Quảng Điền xem xử vụ kiện của hai người. Tại tòa, chị hàng xén khẳng định là chưa bao giờ quan hệ tình dục với anh L, do đó việc anh này phao tin khắp chợ rằng chị đã quan hệ tình dục với anh là bịa đặt, vu khống. Từ đó, chị yêu cầu bị đơn phải bồi thường về danh dự, uy tín và nhân phẩm và tổn thất kinh tế là tổng cộng 15 triệu đồng, đồng thời phải xin lỗi chị công khai.
“Phản pháo” trước lời khai của nguyên đơn, anh L cho rằng, trong ba năm qua mình đã “ngủ” với chị hàng xén tới bốn lần. Để chứng minh “tui nói thiệt”, anh khẳng định: “Ở “chỗ kín” của chị ấy có một nốt ruồi. Tui đề nghị tòa cho đi giám định”.
Trước tình huống như vậy, TAND huyện Quảng Điền tỏ ra lúng túng nên phải làm công văn xin ý kiến TAND tỉnh Thừa - Thiên Huế. Tuy nhiên sau đó TAND tỉnh đã quyết định không cần thiết phải giám định nốt ruồi vì dù chị hàng xén có nốt ruồi ở “chỗ kín” hay không cũng thể là bằng chứng kết luận hai người từng có quan hệ tình dục.
Cơ quan tố tụng tiến hành xác minh lời khai của bị đơn nhưng cũng không có nhân chứng nào khẳng định có việc hai người ngủ với nhau. Vì vậy, tòa tuyên buộc anh L phải xin lỗi công khai và chấm dứt tuyên truyền, bịa đặt làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín và nhân phẩm của nguyên đơn. Ngoài ra, tòa buộc bị đơn phải bồi thường một triệu đồng cho chị hàng xén để bù đắp tổn thất về tinh thần.
Sau khi xét xử sơ thẩm, anh L đã làm đơn chống án, cho rằng chưa đủ chứng cứ kết luận anh có xúc phạm nhân phẩm uy tín của chị V. Việc Tòa sơ thẩm không giám định nốt ruồi của chị hàng xén theo yêu cầu của anh là không công bằng.
Bên cạnh đó, VKSND huyện Quảng Điền kháng nghị bản án với nội dung: Việc anh L tung tin có quan hệ tình cảm là nhằm mục đích gì, và quan hệ bất chính chưa làm sáng tỏ?. Cơ quan công tố cũng cho rằng cần phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra bổ sung, yêu cầu giám định cái… nốt ruồi.
Ngay cả bị đơn cũng kháng cáo, cho rằng, chị yêu cầu bồi thường 15 triệu nhưng tòa sơ thẩm chỉ xử một triệu là không thỏa đáng. Hơn nữa, chị này cho rằng “anh ấy sau phiên tòa sơ thẩm vẫn tiếp tục phao tin sai sự thật, vì vậy đề nghị tòa án chuyển hồ sơ để cơ quan điều tra khởi tố anh ta về tội vu khống”.
Tại phiên phúc thẩm, TAND tỉnh Thừa Thiên Huế đã nhận định, việc anh L nói có quan hệ tình dục với chị V không có chứng cứ cụ thể. Tòa cũng không chấp nhận yêu cầu giám định cái nốt ruồi vì đây không phải là căn cứ chứng minh anh từng có quan hệ tình dục với nguyên đơn. Tòa phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm.
Đau đầu chỉ vì… cách xin lỗi
Bản án được giao cho cơ quan thi hành án huyện Quảng Điền tổ chức thi hành. Tuy nhiên, sau đó, cơ quan này đành “bó tay” trong việc yêu cầu bị đơn phải xin lỗi công khai nguyên đơn theo quyết định bản án. Lý do là vào thời điểm đó, luật chưa có quy định, hướng dẫn cách thức thi hành án những vụ việc này. Ngay đến cả Cục thi hành án (Bộ Tư pháp) khi đó cũng “lắc đầu chịu chết” không thể hướng dẫn vì vấn đề quá mới, luật chưa quy định.
Để thi hành bản án, cơ quan thi hành án huyện đành “sáng tạo” bằng cách buộc anh L phải tự viết lời xin lỗi nguyên đơn; kèm yêu cầu đến khi nào họp dân toàn xã thì anh ta phải đọc lời xin lỗi công khai.
Đến ngày 23/3/1998, anh L đã viết đơn xin lỗi với nội dung: “Tôi tên là H.L, trú tại xã Quảng Vinh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tôi thấy bản án số 78 ngày 25/11/1997 giữa tôi và bà V. là đúng nên bản thân tôi hoàn toàn nhất trí theo bản án mà tòa đã tuyên. Nay tôi viết đơn này để xin lỗi bà V. và chấm dứt hành vi tuyên truyền là có quan hệ tình dục với bà V”.
Mặc dù đơn xin lỗi đã viết xong nhưng rắc rối lại tiếp tục phát sinh khi anh L lại không chịu đọc bản xin lỗi trong cuộc họp toàn dân xã mà anh đề nghị cho đọc đơn xin lỗi trên đài truyền thanh xã. Tuy nhiên, một vấn đề khác phát sinh là nếu đọc trên đài truyền thanh xã thì anh L hay phát thanh viên đọc?.
Cơ quan thi hành án tỉnh Thừa Thiên - Huế lại một lần nữa lúng túng. Cứ “lằng nhằng như canh hẹ” suốt một thời gian dài như thế, phải mất một thời gian khá dài sau đó, cơ quan thi hành án mới có thể thuyết phục anh L đọc đơn xin lỗi chị V trước toàn dân trong địa phương. Vụ việc tạm ổn thỏa sau nhiều năm trời rắc rối.
Một cán bộ tư pháp tại địa phương, người đã trực tiếp tham gia vụ án này cho biết, vụ án nêu trên đã xảy ra cách đây 15 năm, thế nhưng cho đến nay vẫn còn mang tính… thời sự vì hiện nay luật vẫn chưa có quy định cụ thể về cách thức xin lỗi trong các trường hợp cá nhân xúc phạm nhân phẩm, danh dự của nhau.
“Cách thức xin lỗi mới được quy định trong trường hợp cơ quan thẩm quyền xin lỗi người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, việc xin lỗi là một hình thức khôi phục danh dự cho nhóm đối tượng này. Nếu giờ gặp lại một trường hợp nói xấu nhau, hết kiện tụng rồi lại chây ì xin lỗi, chắc tôi cũng lại loay hoay như ngày đó, rồi năn nỉ các bên cho xong công việc”, vị cán bộ này cho biết.


Theo Pháp luật & Thời đại

Dưới sự "lãnh đạo" của đảng cộng sản, Việt Nam chắc chắn mất nước

Dưới sự "lãnh đạo" của đảng cộng sản, Việt Nam chắc chắn mất nước
7/04/2011 02:54:00 PM CoVang



Maria Ngọc (danlambao) - Ngày xưa đất nước đã gặp vận may có một con mãnh sư là Nguyễn Huệ. Con mãnh sư không thể ngồi xuống nói chuyện với con giun. Con mãnh sư không phải xin phép con giun để đi biểu tình tỏ lòng yêu nước. Bây giờ Việt Nam giống thời Lê chiêu Thống, được cai trị bởi một động vật không xương sống, chỉ biết cong lưng quỳ gối trước giặc... Ngày nay, tất cả con dân Việt Nam, bất kỳ “con” gì, từ con chim sẻ đến con đại bàng, từ con kiến đến con voi, từ “con” trong nước đến “con” hải ngoại, tất cả - trừ con chó săn của đảng - hãy đứng lên, cùng một lòng cứu nước...

*

Trung Quốc đã có ý đồ bành trướng chia ba thế giới từ lâu. Chặng đầu tiên phải là Việt Nam. Nhưng sau cuộc chiến 1979, dù thắng nhưng Trung Quốc biết chưa đủ sức chia ba thế giới, nên đã quay về với 4 điểm hiện đại quốc phòng, tổ chức quân đội theo cách tổ chức của Tây phương. Hơn 30 năm trôi qua, bây giờ con trời đã mập mạp mạnh khỏe hơn trước, nghĩ rằng thời đã tới. Nước đầu tiên là nạn nhân sẽ là Việt Nam.

Nếu chỉ so sánh sức mạnh quân sự 2 bên thì Việt Nam đi đứt, nhất là trên mặt biển. Dưới sự cai trị của đảng cộng sản, Việt Nam bây giờ được ví như vỏ trứng được sơn mầu đồng, coi bề ngoài thì cứng cáp đấy, nhưng chỉ một va chạm nhẹ là vỡ tan ngay. Đánh nhau ngoài vấn đề vũ khí, còn phải kể đến ý chí, tinh thần chiến đấu.

Ý chí và tinh thần chiến đấu là yếu tố then chốt. Việt Nam xưa nay đánh thắng mọi kẻ thù nhờ yếu tố này. Vua tôi một lòng đánh giặc… lạ, giữ kinh đô không được thì rút vào bưng, đánh lớn không được thì đánh nhỏ, đánh nhỏ không được thì đánh du kích, đánh cho đến người cuối cùng. Chắc chắn sẽ thắng.

Từ thiên tài chính trị, quân sự Machiveli của Ý đến thiên tài … lạ là Tôn Tử cũng đã dặn quân sĩ rằng:

ĐÁNH XỨ NÀO MÀ NGƯỜI DÂN XỨ ĐÓ ĐỒNG LÒNG CÙNG ĐÁNH TỚI CHẾT THÌ SẼ KHÔNG CHIẾM ĐƯỢC.

Và:

TRƯỚC KHI XUẤT QUÂN MÀ LÒNG QUÂN KHÔNG YÊN THÌ KHÔNG NÊN XUẤT.

Nhưng Việt Nam Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 2011 thì khác. Vua, quan, lính cấn thành … nhiễu nhương như thời Lê Chiêu Thống. Ngay trong triều đình, lính hoàng tộc, các công thần còn chỉ ra nhà đã mục, bốc mùi. Còn xuất quân... từ tư lệnh đến chính ủy xuống tới hang dưới cùng là... giao liên, có đứa nào yên đâu. Đi đánh nhau với giặc lạ mà ngay trong triều đình đã có điệp nằm trong thì chưa đánh đã đưa lưng cho giặc đâm. Dân ta thì vợ con ở nhà lỡ có việc vào đồn CA là chỉ đợi mang xác về. Cả nước, ở đâu cũng biểu tình đòi đất, vật giá leo thang, còn bao nhiêu chuyện nữa... Nước rối như hẹ, làm sao lòng yên mà đi đánh được.

Việt Nam dưới sự cai trị của đảng cộng sản chỉ còn là cái vỏ trứng sơn mầu đồng. Chạm nhẹ là nát.

Đảng quang vinh ta biết điều đó. Giặc Trung Quốc biết điều đó. Trung Quốc bây giờ đổ lực đánh Việt Nam, chỉ từ 1 tới 3 tháng là xong. Nhưng Trung Quốc chưa đánh. Cho đến khi thỏa hiệp xong với Mỹ.

Trung Quốc cần Việt Nam nhiều hơn Mỹ cần Việt Nam, Trung Quốc sẽ trả giá cao cho Mỹ làm ngơ Việt Nam (trong đó Trung Quốc sẽ làm ngơ cho Mỹ và Do Thái ở Iran, Trung Quốc – dù không thích - cũng sẽ phải im lặng khi NATO làm business ở Libya, Phi Châu, Trung Đông). Nếu Trung Quốc không mua được Mỹ mà Việt Nam lộ vẻ muốn bắt tay với Mỹ thì Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam ngay. Còn nếu Trung Quốc mua được Mỹ thì Việt Nam chắc chắn sẽ mất, nhưng chậm hơn. Trung Quốc sẽ chiếm Việt Nam không tốn một viên đạn.

Đừng nghĩ Mỹ bán Việt Nam là từ bỏ quyền lợi của Mỹ ở biển Đông. Mỹ đã thiết lập một vòng đai bao vây Trung Quốc từ lâu. Tính theo chiều kim đồng hồ từ phía Bắc Đông Bắc nước Trung Quốc trở xuống. Đầu tiên là Nhật, kế đó Đại Hàn, xuống nữa là Đài Loan, Philippines (nơi Mỹ đặt bộ tư lệnh vòng đai). Phía Nam thì có Singapore, Thái Lan, vòng qua phía Tây thì có Pakistan, Afganistan. Phía Tây Bắc là Tajikistan, Kyrgyzstan, Uzbekistan, Kazakhstan. 12 nước với hàng loạt các căn cứ quân sự “ngáng chân” Trung Quốc. Việt Nam chưa nằm trong chuỗi xích bao vây Trung Quốc, nhưng Mỹ vẫn có thể “bán” Việt Nam. Mỹ không cần Việt Nam nhiều như Trung Quốc cần Việt Nam. Việt Nam là cái đuôi của Trung Quốc, ôm gọn một nửa biển Đông. Trung Quốc rất cần Việt Nam trong chặng đầu tiên chinh phục. Mỹ “bán” Việt Nam cho Trung Quốc, chỉ là bán một cái “ngáng chân” chưa chính thức, Mỹ vẫn cón 12 cái “ngáng chân” khác. Nhưng với Trung Quốc thì khác, Việt Nam phải thuộc về Trung Quốc, Việt Nam chưa thần phục thiên triều thì Hồ hoàng đế và Ôn tể tướng chưa yên tâm. Trong cuộc mua bán này, Mỹ “bán” rất được giá. Trung Quốc chắc chắn mua được Mỹ.

Đảng ta biết đánh nhau bây giờ là tan nát hết. Mất ngôi vua, mất dinh thự, mất xế khủng, mất chân dài, mất model lẫn siêu sao. Mà nhất là chạy đi đâu. Chạy qua xứ CS Cuba thì chỉ có bẻ mía mà gặm, qua xứ Trung Cổ Bắc Hàn thì chỉ có cuốc sắn. Còn qua Tây, thì từ “Nguỵ” lẫn bộ đội chực sẵn, dễ gì yên thân.

Tiền bạc ký cóp ăn cắp trong nước, bây giờ Tây nó niêm phong, mất trắng, coi gương Tunise, Ai Cập thì biết. Hoàng đế thiên triều biết điều đó, ngài biết bọn phiên bang dữ dằn ngày xưa đã tuyệt giống, chỉ còn cẩu tử, chúng không có sự chọn lựa nào khác ngoài việc quy hàng.

Mà đúng vậy, đảng "quang vinh" biết chỉ có cách âm thầm quy hàng là thượng sách. Âm thầm dâng biển, dâng đất, dâng rừng, dâng nhà máy. Cho lập những Đặc khu Trung Quốc, nơi đó toàn Trung Quốc, mà đếm nhân khẩu thì biết, đại đa số là tuổi lao động, đã qua huấn luyện quân sự.

Những vùng đất đó Công an, Bộ đội Việt Nam đứng ngoài. Thực chất nó là những binh đoàn Trung Quốc vào đóng quân hợp pháp trên đất Việt. Nó sẽ có quốc tịch Việt Nam (như Việt Nam đã di dân, di lính qua Căm Bốt và làm giấy quốc tịch Miên) Trung Quốc càng ngày càng mang lính và dân đi khắp lãnh thổ Việt Nam.

Nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, đảng ta giao hết cho cái mồm em Phương Nga, bài cũ cứ thế mà hót. Phản đối, yêu cầu tôn trọng chủ quyền… Khi thấy đồng bào bứt xúc quá, e nổ lớn thì xin phép vua cha cho chúng thần nổ một tí cho hạ nhiệt, thiên triều bèn đóng kịch xuống nước, thế là 700 thằng lề phải gáy hồ hởi bài đảng quang vinh to phải biết. Các hợp đồng kinh tế, thực chất là triều cống, chì có tiền ra mà không có tiền vào.

Đến khi hồng quân Mao đóng chật hết đất Việt thì … tự nhiên Việt Nam thành Tây, không phải Tây Phương mà là Tây Tạng.

Bộ Chính Trị thì xuống làm huyện uỷ, vẫn còn được tí bổng lộc, có còn hơn không. Chỉ khổ cho dân Việt. Bắt đầu Bắc thuộc lần thứ 5, bắt đầu năm 2012.

Bây giờ Việt Nam giống thời Lê chiêu Thống ngày xưa, được cai trị bởi một động vật không xương sống –như con giun với Ba Dũng, Trọng lú..., chỉ biết cong lưng quỳ gối trước giặc.

Ngày xưa đất nước đã gặp vận may có một con mãnh sư là Nguyễn Huệ. Con mãnh sư không thể ngồi xuống nói chuyện với con giun. Con mãnh sư không phải xin phép con giun để đi biểu tình tỏ lòng yêu nước.

Ngày nay ta không biết hồn thiêng song núi, tổ tiên có độ cho con cháu có một con mãnh sư Nguyễn Huệ nữa không, nhưng những việc ta phải làm là:
Tất cả con dân Việt Nam, bất kỳ “con” gì, từ con chim sẻ đến con đại bàng, từ con kiến đến con voi, từ “con” trong nước đến “con” hải ngoại, tất cả - trừ con chó săn của đảng - hãy đứng lên, cùng một lòng cứu nước.
@Net

Các đứa con của Quang Trung hãy đứng lên, đạp bọn Việt gian CS trước, sau đó toàn dân dốc sức đánh giặc đừng nghe bàn dùi – coi kỹ thì nó là gốc Trung Quốc- ta mới giữ được nước. mss.ngoc

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VỪA LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, VỪA LÀ NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN.! ?.....?

Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã để lại những luận điểm rất quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng trong công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.

1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
- Khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. 1
- Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam trên cơ sở phân tích đúng đắn tình hình kinh tế - xã hội và giai cấp ở Việt Nam, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong Cách mạng Việt Nam, tổ chức ra Đảng cộng sản Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng, bao giờ Đảng cũng “tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
- Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. 2 Điều này thể hiện hai mặt gắn bó với nhau rất chặt chẽ ở Hồ Chí Minh là phải nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, để vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người khẳng định: không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, nhưng việc tiếp nhận đường lối của Đảng Cộng sản lại là điều kiện cần thiết để xác định được mục tiêu yêu nước đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước hết phải là người yêu nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, lãnh đạo công nhân và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
- Thấm nhuần luận điểm của Mác-Ănghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân tộc”, Hồ Chí Minh khi thành lập Đảng đã xác định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam cũng như phong trào cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh luận điểm của Người về việc gắn Đảng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, gắn giai cấp với dân tộc là hoàn toàn đúng đắn.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam – “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
- Từ luận điểm phải kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để hình thành Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh còn đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2 – 1951), Người đã khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam” 1. Năm 1961, luận điểm đó được Người nhắc lại: “Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”. 2
- Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc, Người đã hiều rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái như không thấy rõ vai trò và sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân, hoặc chỉ thiên về công nông mà không thấy rõ vai trò của các tầng lớp, giai cấp khác đi với công nông tạo thành sức mạnh to lón của khối đại đoàn kết toàn dân.
- Theo Hồ Chí Minh, cái quyết định giai cấp công nhân của Đảng không phải chỉ ở số lượng Đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin; ở mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giái phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; ở vấn đề Đảng nghiêm túc tuân thủ những của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”.
- Trong cuốn Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng một câu của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động…chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”.1 Người cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.2
- Người đã tìm thấy lý luận cách mạng tiền phong ở chủ nghĩa Lênin: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.3
- Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm nòng cốt” theo Hồ Chí Minh không có nghĩa là giáo điều theo từng câu, từng chữ mà là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời thâu thái những tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tác của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
- V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới để phân biệt với những Đảng cơ hội của Quốc tế II. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý xây dựng Đảng của V.I.Lênin, đề ra những nguyên tác xây dựng Đảng sau đây:
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đây là nguyên tác cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản, không biến Đảng thành một câu lạc bộ, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
- Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau trong một nguyên tắc, dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung; tập trung trên cơ sở dân chủ, thep nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiền đánh thì chỉ như một người”.4
- Về dân chủ, Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của một người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc ấy, quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.” 5
- Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì có dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần dân chủ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do dó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề. Việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, như thế công việc mới chạy, như thế mới tránh được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ lại vào tập thể. Không xác định rõ cá nhân phụ trách, thì giống như “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
- Người kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau” 1.
- Về vấn đề tập trung dân chủ, Người giải thích:
“Tập thể lãnh đạo là dân chủ
Cá nhân phụ trách là tập trung
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung” 2
Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình:
- Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. 3
- Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn.
- Tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc. Người nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan từa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó… là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” 4.
- Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học cách mạng, mà còn là của nghệ thuật. Người lưu ý cán bộ, đảng viên và các cấp bộ Đảng từ trên xuống dưới phải “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”.5 . Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, “phải có tình đồng chí thường yêu lẫn nhau”.
Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.”
- Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cá bộ, đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật này lá do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”1
- Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng” 2.
Năm là, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
- Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết thống nhất của Đảng là một nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân, xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
- Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Trong di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” 3
- Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở này sẽ xuất hiện những nguy cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên trong.
- Củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất đối với cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. 1
- Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu cầu: phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ; phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra – tham ô, lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức quyền, danh lợi.

6. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân. Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân.
- Từ khi Đảng ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn bómáu thịt với nhân dân, Đảng đã được nhân dân thừa nhân là Đảng duy nhất có vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam và trong suốt tiến trình đi lên của cách mạng Việt Nam, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Năm 1960, Người nói: “Với tất cả sự khiêm tốn của một người cộng sản, chúng ta có thể tự hào rằng, Đảng ta vĩ đại thật”.
- Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau. Người nhấn mạnh: Lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ.
- Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ nhân dân, chứ không phải người chủ của nhân dân, tự cho phép mình đứng trên dân, trên Nhà nước, trên pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước là nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
- Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng không có quyền lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng dân. đảng cũng phải lấy dân làm gốc.

7. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
- Chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng.
- Hồ Chí Minh nhận định, bên cạnh số đông đảng viên xứng đáng với danh hiệu của mình, thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng…họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi” 1. Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm quan trọng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” 2. Vì vậy, phải chỉnh đốn để sửa chữa những lỗi lầm, sai trái ấy.
- Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu những ảnh hưởng của xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái hay, lọc bỏ được được cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
- Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi việc xây dựng đảng, chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng. Người nhìn thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lựx có sức mạnh rất to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nếu biết sử dụng đúng quyền lực; mặt khác, nó cũng có sức phá hoại rất ghê gớm vì con người nắm quyền lực có thể thoái hóa, biến chất rất nhanh chóng, nếu đi vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, và khi đã có quyền lực thì lợi dụng quyền lực, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi… Vì vậy, trong điều kiện đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đồi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá biến chất gây ra.
- Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” 3

Những luận điểm trên đây về công tác xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh thực sự là một chân lý, phản ánh đúng thực tiễn và đã được thực tiễn kiểm nghiệm, khôngphải chỉ từ thực tiễn nước ta, mà còn ở nhiều nơi trên thế giới, có ý nghĩa rất sâu xa đối với Đảng Cộng sản, đối với mỗi đảng viên cộng sản. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng và Nghị quyết Đại hội IX đang được toàn Đảng triển khai hiện nay là những việc làm thiết thực để thực hiện những di huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong tình hình mới.

Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2011

hư gửi Tổng thống Barack Obama của thân phụ anh Trần Huỳnh Duy Thức

Thư gửi Tổng thống Barack Obama của thân phụ anh Trần Huỳnh Duy Thức
Posted on 04/12/2011

Quý bạn đọc thân kính,

Bác Trần Văn Huỳnh gửi lời cám ơn đến tất cả mọi người đã chia sẻ và ủng hộ những nỗ lực vận động tự do cho anh Trần Huỳnh Duy Thức tức blogger Trần Đông Chấn. Theo đề nghị của bạn đọc Danlambao và được sự đồng ý của bác Trần Văn Huỳnh, Danlambao kêu gọi quý cô bác, anh chị và bạn bè, nhất là những người đang sinh sống ở nước ngoài, copy lá thư này và sửa chút đỉnh cho phù hợp để gửi cho các lãnh tụ thế giới, các dân biểu tại các quốc gia đang cư ngụ. Xin chân thành cám ơn.

Dân Làm Báo

*

Kính gửi: Dân Làm Báo

Tôi là Trần Văn Huỳnh, thân phụ của Trần Huỳnh Duy Thức, người đã bị kết án 16 năm tù vì ''lật đổ chính quyền nhân dân'' cùng với các anh Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định và Lê Thăng Long vào năm 2010 tại Việt Nam.

Vừa rồi, tôi đã gửi một bức thư đến Tổng thống Obama để tìm kiếm sự quan tâm hơn nữa của Ngài Tổng thống về các vấn đề nhân quyền. Tôi cũng đã gửi bức thư này đến các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới với cùng một mong muốn.

Tôi cũng xin được gửi bức thư trên đến quý vị. Rất mong nhận được sự hỗ trợ của quý vị để những gì tôi trình bày trong thư có thể đến được với công chúng một cách rộng rãi. Tôi tin rằng điều này sẽ giúp cho những mong muốn trên của tôi sẽ sớm thành hiện thực.

Xin cảm ơn và kính chào trân trọng.

Trần Văn Huỳnh

Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2011

Dốt như cục bột

Dốt như cục bột
Posted on 21/11/2011

Mai Xuân Dũng - Trong lần tái bản miệng mới nhất của cuốn Sát thủ đầu mưng mủ có thêm một câu: DỐT NHƯ CỤC BỘT. Hình minh họa vẽ một nhân vật dung mạo béo tốt, đang chém gió ở hội trường Quốc hội Vina, sau lưng là chợ Bến thành, nhìn qua biết ngay là bác Hoàng Hữu Phước đại biểu quốc hội thành phố Hồ Chí Minh.

Mấy hôm rồi Quốc hội tranh luận nảy lửa về chuyện có xây dựng Luật Biểu tình hay không. Phái Không tại nghị trường, đặc biệt là bác Hoàng Hữu Phước băm bổ nổ một phát đại bác: kịch liệt phản đối xây dựng Luật Biểu tình. Để bảo vệ quan điểm, bác còn viện dẫn “thời điểm hiện tại, dân trí Việt nam chưa cao, kinh tế chưa phát triển nên khó quản lý”. Đánh giá tình hình dân trí như thế không rõ có chính xác không nhưng việc người dân hoang mang về quan trí như các bác Phước, bác Hồng… là có thật.

Phản ứng tại nghị trường ai cũng đã rõ nhưng tham khảo thêm dư luận xã hội, thấy phái Có đáp trả bằng vài triệu phát súng kíp trên Facebook. Kích chuột vào Gúc gồ một nhát chỉ sau 0,08 giây tòi ra tới hơn một triệu hai trăm nghìn kết quả cho Hoàng Hữu Phước mà chủ yếu là những nhận xét rất vui vẻ kiểu như: Phước cướp cơm danh hài, đầu đất đòi ăn bít tất, Phước Mít đặc thích Biết tuốt rồi là bác 3Dũng quân đỏ, bác Phước quân xanh vv…

Bỗng đâu được nổi tiếng như thế không rõ bác Phước có phút nào ngất trên cây quất không thì không ai biết chỉ có điều các hãng điện thoại di động lãi to. Doanh thu SMS tăng vọt. Nghe đâu do không chịu nổi áp lực từ các tin nhắn, các cuộc gọi hết ngày dài đến đêm thâu, bác Phước đành bỏ con SIM đẹp để được yên thân.

Cũng giống như bác Trần Tiến Cảnh, đại biểu quốc hội khóa 12 tỉnh Hà nam nổi tiếng với phát…loạn ngôn: “Những nước có chỉ số IQ cao thì có đường sắt cao tốc” chắc bác Phước cũng sẽ được lưu (ô) danh muôn thuở.

Tuy nhiên ở đời mất cái lọ thì được cái chai, hãng tin VH mới đây cho biết bác Phước rất tự hào khi hai nhân vật “cộm cán ăn no chán” là bà Nguyễn Thị Doan và bác Nguyễn Minh Hồng lẽ ra chìm rồi nay nhờ ăn theo bác Phước bỗng dưng đội bèo nổi…phềnh theo cùng với cả một huyền tích Táo quân. Bộ ba này bên nhau khác gì ba cái đầu rau kê nồi chế độ.

Mới hôm qua nghe một bác cựu, huân huy đầy ngực yêu chế độ kính bác Hồ khi lạm bàn về chuyện nghị trường đã lớn tiếng chê trách cử tri thành phố Hồ Chí Minh là thiếu tinh thần trách nhiệm khi cầm lá phiếu, bầu quấy quá đại diện của mình vào Quốc hội như bác Phước. Thật là oan cho các cử tri thành phố mang tên Bác, với cơ chế bầu ít bán nhiều, với phương châm dân bầu, đảng chọn như bao năm nay thì những chuyện khôi hài đã thấy ở nghị trường là chuyện không tránh khỏi.

Khi tấm màn nhung sân khấu Quốc hội khép lại, mọi chuyện cũng sẽ qua đi chỉ có điều day dứt cho những người dân là khi đảng quyết định chọn những ông nghị nếu không gật thì cũng diễn hài như bác Hoàng Hữu Phước thì không hiểu tương lai đất nước này rồi sẽ nghèo mãi đến bao giờ?

Còn về phía đảng ta, nếu cứ chọn những vị như bà Doan, bác Hồng bác Phước làm ba cái đầu rau kê nồi chế độ dốt như cục bột thế này tránh sao cho khỏi cảnh bột nát nồi tan.
DÂN PHÒNG ĐỘT NHẬP, QUẤY RỐI NHÀ THỜ THÁI HÀ

Vào lúc 16giờ 20 ngày 20/11/2011, tại Nhà Thờ giáo xứ Thái Hà trong lúc thánh lễ thiếu nhi đang diễn ra trang nghiêm sốt sắng, bất ngờ có ông dân phòng phường Quang Trung mặc quân phục, đeo bảng tên hẳn hoi, tay cầm điếu thuốc lá xông thẳng vào trong Nhà Thờ, hùng hổ tiến lên tới bậc tam cấp gian cung thánh của Nhà Thờ, và nếu không có các anh huynh trưởng Đoàn thiếu nhi Thánh Thể chạy đến ngăn cản, thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi ông dân phòng này tiến lên bàn thờ nơi cha Martin Vũ Đồng Tùng và cha Giuse Đinh Tiến Đức đang dâng thánh lễ. Ông dân phòng này khi được các anh huynh trưởng mời ra ngoài thì tức tối, vùng vằng, miệng cứ la lối xin gặp cha chính xứ Thái Hà.







Nhà Thờ là nơi tôn nghiêm, nơi thánh thiêng, được mọi người tôn trọng, vậy mà ông dân phòng xông vào quấy rối làm cho nhiều em thiếu nhi đang tham dự thánh lễ phải hốt hoảng, sợ hãi và làm cho đông đảo anh chị em giáo dân đang hiện diện cảm thấy bức xúc. Đây là hành vi báng bổ đạo Công giáo, xúc phạm nặng nề đến nơi tôn nghiêm, phá rối trật tự trong khi dân phòng được lập ra để duy trì trật tự an ninh.

Theo luật sư Triệu Trung Dũng, Trưởng Văn phòng Luật sư Triệu Dũng và Cộng sự : “Đa số lực lượng trật tự phường hay người dân vẫn gọi nôm na là dân phòng, là do UBND phường tuyển chọn và tạm giao cho công an phường quản lý… Họ là lực lượng trật tự, tự quản phường trong việc duy trì trật tự an ninh, an toàn xã hội, bởi họ chính là cánh tay nối dài cho công an” ( Nguồn báo KH & ĐS, số 139, 18/11/2008, trang 6).

LỜI TẠ LỖI VỚI ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRƯƠNG TRỌNG NGHĨA

Kính thưa đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa,
Kính thưa đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc,
Kính thưa chú Nguyễn Xuân Diện,
Kính thưa toàn thể bạn đọc theo dõi blog Nguyễn Xuân Diện,

Trong bức Thư Ngỏ gửi đại biểu Dương Trung Quốc và toàn thể đại biểu Quốc hội khóa XIII vừa qua mà cháu đã gửi nhờ chú Nguyễn Xuân Diện trao tận tay đại biểu Dương Trung Quốc đã có 1 sự nhầm lẫn.

Đó là căn cứ theo thông tin ban đầu từ báo Vneconnomy http://vneconomy.vn/20111117025218325P0C9920/tranh-luan-gay-gat-du-an-luat-bieu-tinh.htm cháu đã nhầm tên vị đại biểu quốc hội đồng tình với ý kiến của đại biểu Hoàng Hữu Phước. Theo tin từ báo này thì đại biểu đó là đại biểu Trương Trọng Nghĩa. Nhưng thông tin sau đó từ báo Tuổi Trẻ http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/465571/Chua-can-Luat-bieu-tinh-vi-dan-tri-thap.html, báo SGGP http://www.sggp.org.vn/phapluat/2011/11/273672/ và từ bạn bè thì đó là không chính xác. Sau khi kiểm chứng, cháu xin chính thức thừa nhận sai sót, xin đính chính và vô cùng xin lỗi đại biểu Trương Trọng Nghĩa, chú Nguyễn Xuân Diện, đại biểu Dương Trung Quốc và toàn thể bạn đọc đã đọc bản lưu trữ của bức thư ngỏ trên tại blog Nguyễn Xuân Diện.

Thông tin đính chính như sau: Người đã đồng tình và ủng hộ ý kiến của đại biểu Hoàng Hữu Phước là đại biểu Đặng Ngọc Nghĩa chứ không phải là đại biểu Trương Trọng Nghĩa.

Đối với riêng đại biểu Trương Trọng Nghĩa, cháu xin dập đầu tạ lỗi vì đã nhầm lẫn dẫn đến việc vô tình xúc phạm danh dự của bác. Cháu mong nhận được sự tha thứ và không chấp của bác. Cháu thành thật xin lỗi và xin chân thành cảm ơn.

Cháu xin nhờ chú Nguyễn Xuân Diện, nếu chưa trao thư ngỏ cho đại biểu Dương Trung Quốc, thì xin đính chính lại giúp cháu, cụ thể là sửa cụm từ Trương Trọng Nghĩa lại thành Đặng Ngọc Nghĩa, đồng thời gửi kèm cháu bản thư tạ lỗi này đến trực tiếp tận tay đại biểu Trương Trong Nghĩa (hoặc có thể nhờ bác Dương Trung Quốc chuyển giúp nếu bác ấy đồng ý) và đăng lên blog Nguyễn Xuân Diện để tất cả bạn đọc được tường.

Một lần nữa cháu chân thành xin lỗi đại biểu Trương Trọng Nghĩa vì đã làm bạn đọc hiểu lầm dẫn đến xúc phạm bác. Cháu xin lỗi chú Nguyễn Xuân Diện vì đã sai sót khiến chú bị liên đới trách nhiệm. Và cháu xin lỗi toàn thể bạn đọc blog Nguyễn Xuân Diện vì đã chuyển đến mọi người 1 thông tin sai lệch.

Cháu xin chân thành cảm ơn.
Cháu
Một Người Việt Nam

Đến lúc phải quan tâm đến Thái Hà

Câu chuyện ở giáo xứ Thái Hà đã dấy lên từ đầu năm 2008. Lần đầu tiên người dân Hà Nội và người dân trong nước bất ngờ khi thấy báo chí, truyền hình của chính quyền ồ ạt tung ra những bài báo, những thước phim lên án gay gắt giáo xứ Thái Hà. Bằng những lời quy kết nặng nề, những người yếu tim nghe phải sởn gai ốc khi nghe những cụm từ mà báo, đài chính quyền nói, nào là “chống đối chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, đi ngược lại lợi ích nhân dân, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng việc đòi đất…”; nào là “cần nghiêm trị, phải loại bỏ, xử lý nghiêm minh, thích đáng, đưa ra trước pháp luật”. Vài người dân là cán bộ hưu trí, đảng viên lên báo, đài kêu gọi nhà nước cần phải dùng vũ lực, sức mạnh xử lý thẳng tay giáo xứ Thái Hà để làm gương….


Người dân Việt Nam thường ngợp trước những lời ghê gớm của báo chí nhà nước. Với một thói quen tâm lý kỳ lạ là cứ thấy cái gì lạ, khác biệt mà bị báo chí lên án là hùa theo. Mà trong những hướng tâm lý bị cuốn theo, bản năng con người thường chọn hướng cuốn theo an toàn nhất. Và ở đây là cuốn theo hướng của kẻ mạnh có tên gọi “chính quyền”.

Đôi khi vì e dè, ngần ngại người dân chọn biện pháp an toàn là im lặng, hoặc à ừ tỏ vẻ đồng ý với những ý kiến của chính quyền. Điều này vô tình khiến cho nhiều người khác cùng ngộ nhận theo hướng bị định sẵn. Người Việt Nam hiện nay ít khi dành thời gian và suy nghĩ tìm hiểu bản chất sự việc là thế nào, để có đánh giá của riêng mình, nhất là trong những sự việc của người khác, không liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mình.

Câu chuyện ở giáo xứ Thái Hà xảy ra trong một hoàn cảnh như vậy, tâm lý người tiếp nhận thông tin từ báo đài cũng như vậy. Không riêng gì những người dân ngoại đạo, mà cả những người dân theo đạo, thậm chí là cả hàng ngũ chức sắc trong Giáo hội cũng bị cuốn theo với tâm lý như vậy. Những tâm lý thế này vô tình đã tiếp sức cho chính quyền, khiến chính quyền càng ỷ vào việc tăng cường truyền thông thiên vị, đưa lệch vấn đề để phục vụ mưu toan, che dấu mục đích chính của mình trong sự việc xảy ra.

Khái niệm mà ta thường nghe thấy như “lợi dụng tự do, tôn giáo để chống đối chính quyền, lợi dụng việc đòi đất để chống phá chính quyền” thường khi nghe câu này chúng ta thấy sự nhấn mạnh ở phần sau. Tiếp thu thông tin này người tiếp nhận thường bị ảnh hưởng bởi câu “chống đối, chống phá”. Trong những việc khác nếu chỉ xảy ra trong thời gian ngắn thì có lẽ chính quyền đã đạt được mục đích, thành công trong việc gieo rắc trong đầu người dân những thành kiến của mình. Nhưng, chính bởi sự kéo dài nhiều năm từ 2008 đến năm 2011 này đã mấy năm, chính quyền vẫn ra rả những luận điệu cũ mèm ấy, khiến người tiếp nhận thông tin sinh ra nhàm chán bỗng nảy sinh tò mò để nhìn lại, suy ngẫm sự việc, không còn bị cuốn theo những gì chính quyền nói bấy lâu. Nhiều người đã bất giác tự đặt câu hỏi: “Thế nào là tự do tôn giáo, có điều này không để lợi dụng. Thế nào là đòi đất, đất ở đâu, thế nào mà có chuyện đòi?” Những câu hỏi đặt ra và trên đường đi tìm câu trả lời đó, là một quá trình tìm đến sự thật của vấn đề.

Tôi là một người dân, từng vì lười nhác mà lệ thuộc vào nguồn tin có sẵn của chính quyền trên đài, báo, truyền hình. Cho đến mới đây thấy báo đài nhà nước gợi lại chuyện Thái Hà với một thái độ rất thù hận, khiến tôi tò mò đi tìm hiểu thêm những thông tin khác ngoài thông tin mà báo đài nhà nước cung cấp. Tìm trên kho tàng đồ sộ thông tin trên Internet, mới thấy sự thật không phải như những gì mà chính quyền nói. Đó cũng là lý do giải thích tại sao chính quyền nói nhiều, nói dai, nói mãi thế mà vẫn không giải quyết được vấn đề. Vấn đề không giải quyết được càng không phải chính quyền có lương tâm, muốn có thời gian hòa giải, thuyết phục như họ nói, mà ngược lại, không giải quyết được vì chính quyền không có được chính nghĩa, không có lương tâm công bằng để giải quyết lý tình. Cố ỷ vào sức mạnh của bạo quyền có yểm trợ của truyền thông để thi hành những thù hận nhỏ nhen trong bản chất của mình.

Một câu nói bị cắt xén của TGM Ngô Quang Kiệt, một hình ảnh bị gán ghép của Linh Mục Nguyễn Văn Khải, một hành động cho côn đồ tấn công nhà thờ hết đêm rồi lại đến ngày. Những hành động không thể chấp nhận được của kẻ côn đồ, chứ đừng nói đến nó là hành động của một chính quyền cho mình là đúng đắn. Phải chăng càng có tổ chức lớn hơn, quy mô hơn thì sự xảo trá, đê tiện càng ghê gớm, quỷ quyệt hơn. Nếu có chính nghĩa thì tại sao nhà nước này phải cắt lời người ta, tại sao công an đưa loa cho người ta bảo gọi giúp thì báo chí lại bảo là tự dùng loa kích động…?

Bỗng nhiên, khi biết được những hành vi đê hèn ấy của chính quyền, tôi không còn muốn nghe gì họ nói nữa. Vì tôi biết rằng đơn giản một điều, người có chân lý, có lương tâm thì không bao giờ làm vậy. Chỉ có những kẻ bất nhân mới chơi trò tiểu xảo, man trá trắng trợn. Mà những kẻ đã bất nhân thì càng nghe chúng nói càng thêm bực bội.

Chúng ta thường nói, nghe gì cũng phải nghe hai tai, nghe hai bên. Nếu các bạn một lần nào đó thử đặt câu hỏi vì sao báo đài nhà nước phải ra rả bao năm như vậy về câu chuyện ở giáo xứ Thái Hà, thì bạn hãy lên mạng tìm hiểu, vượt qua tường lửa, tìm kiếm những thông tin bạn sẽ thấy nhiều điều không phải như bạn từng nghe, từng thấy ở trên đài báo nhà nước.

Trách nhiệm của con người có nhiều với vấn đề xã hội, ví dụ trước những bất công có thể bạn không có đủ sức, trí, tài để đấu tranh với nó. Nhưng, nếu bạn cũng không tìm hiểu sự thật bằng một cách an toàn như ngồi nhà xem tin tức mọi chiều, thì quả thật bạn đã vô tình giúp cho những bất công, những điều dối trá có cơ hội để phát triển.

Và, biết đâu ngày nào đó, bạn là nạn nhân của sự dối trá, của sự bất công mà không ai hiểu cho bạn.

14/11/2011

Nam Đồng

Nguồn: Nữ Vương Công Lý

Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

Tranh luận nảy lửa về Luật biểu tình

Tranh luận nảy lửa về Luật biểu tình

VNN - Đại biểu tự ứng cử ở TP. HCM Hoàng Hữu Phước cho rằng nếu lấy ý kiến, đa số dân sẽ không đồng ý ban hành Luật biểu tình, song theo ông Dương Trung Quốc, phát biểu như vậy là xúc phạm đến dân.

Thảo luận hội trường sáng nay (17/11) về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nhiều đại biểu đã tranh thủ diễn đàn để bày tỏ quan điểm về việc cần hay không Luật biểu tình.

“Đa số công dân sẽ không ủng hộ”

Đại biểu Hoàng Hữu Phước (TP.HCM) gây chú ý với câu mở đầu bài phát biểu: “Đề nghị Quốc hội loại bỏ Luật lập hội và Luật biểu tình khỏi danh sách dự án luật”.

Lý do đầu tiên ông Phước nêu là ở Việt Nam đã có Mặt trận Tổ quốc. “Nếu Luật lập hội là để tạo nên các đối thủ bên ngoài hệ thống Mặt trận vô hiệu hóa, tiến đến xóa sổ Mặt trận, vậy Luật lập hội có cần không?”, ông Phước dõng dạc hỏi.

Luật biểu tình, theo ông lại càng không cần. Và ông tỉ mỉ dẫn lại các cứ liệu lịch sử.




ĐB Hoàng Hữu Phước

Theo đó, từ khi có cuộc biểu tình đầu tiên trong lịch sử loài người năm 1913 do Gandhi tổ chức, mãi cho đến những năm 1960, từ ngữ “biểu tình” mới xuất hiện ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ bắt đầu từ việc chống lại chính phủ Kennedy đẩy mạnh cuộc chiến tranh Việt Nam.
“Điều nhất thiết phải khẳng định ở đây là ngay từ khởi thủy và cho tới tận ngày nay, biểu tình là để chống lại chính phủ“, ông Phước nói.

Ông Phước dẫn chứng thêm, trong tiếng Anh biểu tình, tức là demonstration luôn để chống Chính phủ. Còn tập hợp đông người để bày tỏ sự ủng hộ nước mình hay ủng hộ một chủ trương của chính phủ nước mình, gián tiếp biểu thị sự không đồng tình đối với chính phủ nước khác thì đó là đức tin hoặc cuộc tuần hành biểu dương lực lượng.

Từ lập luận trên, ông Phước đúc kết lại, “Việt Nam có cần một cuộc biểu tình chống chính phủ, chống các chủ trương, chính sách, đạo luật của Chính phủ Việt Nam hay không. Nếu không cần, tại sao lại đưa dự án Luật biểu tình, nói rồi nói mãi như thể nó là khuôn vàng, thước ngọc để đo chiều cao, chiều rộng, chiều dài, chiều sâu của cái gọi là tự do, dân chủ”.

Theo ông, điều mà nước ta đang cần có thể là những quy định về đức tin, về tuần hành đông người. “Nhưng liệu Quốc hội có nên dành ra 2 năm và bao nhiêu tiền của của nhân dân để soạn ra dự án Luật đức tin hay Luật tuần hành hay không?”, ông Phước lên tiếng.

Sau hàng loạt lập luận trên, vị đại biểu của TP.HCM dẫn chứng về hậu quả của một số cuộc biểu tình vừa diễn ra vừa qua. Mà điển hình là các cuộc biểu tình đó gây ra nạn tắc đường.

Khi đi ngang qua vài cuộc tập hợp đông người ở thành phố nhằm chống đường lưỡi bò, ông đã nghe những người bị kẹt xe lớn tiếng đe dọa những người đang tập hợp biểu tình ấy.

“Sự giận dữ này có thể sẽ biến thành gây hấn, bạo loạn, đánh nhau giữa vài nhóm người biểu tình và chống biểu tình. Chưa kể những cuộc tập hợp đông người ngoài trời ấy có xâm hại quyền tự do đi lại của người dân tại khu vực bị phong tỏa do biểu tình”, ông Phước nói.

Ông kết luận, cái gọi là quyền biểu tình ấy có lớn hơn quyền được kiếm sống của người dân, quyền được ra đời của con cái của người dân, quyền được sử dụng công lộ của người dân, quyền được mưu cầu hạnh phúc của người dân.

Ông Phước khẳng định, nếu được lấy ý kiến, đa số công dân sẽ không ủng hộ Luật biểu tình vì bản chất dễ bị tổn thương và dễ bị lợi dụng gây ra biến loạn.

Phản ứng với quan điểm cho rằng ở nước ngoài vẫn tổ chức biểu tình thì Việt Nam cũng sẽ làm được, ông Phước lần lượt nêu dẫn chứng các cuộc biểu tình xảy ra ở Anh, ở Mỹ vừa qua và kết luận, hầu hết đều biến thành bạo loạn và làm ô danh đất nước.

“Việt Nam chưa phải là siêu cường kinh tế để có thể đài thọ cho một sự ô danh”, ông Phước chốt lại bài phát biểu đanh thép của mình.

Rất nhiều ĐBQH cũng tán thành ý kiến ông Phước. Chẳng hạn, theo đại biểu Huỳnh Thế Kỳ (Ninh Thuận), phải hiểu sâu xa những vụ việc biểu tình phản đối đường lưỡi bò như vừa qua có thể xuất phát từ động cơ tốt nhưng nên hiểu rõ đằng sau đó là gì?

Đại biểu Đặng Ngọc Nghĩa (Huế) nói, cho phép tổ chức biểu tình sẽ dễ khiến nhiều lực lượng lợi dụng, thậm chí sự chỉ đạo của nước ngoài. Nếu xảy ra vấn đề nhạy cảm, tranh chấp, chính quyền nên tăng cường đối thoại với dân. “Chứ theo tôi nghĩ có Luật biểu tình vô hình trung có thể thành chống chế độ, nếu chúng ta mít tinh như ý kiến của anh Phước tôi đồng tình, mít tinh là biểu thị sự đồng tình”.

Còn đại biểu Nguyễn Thanh Tùng (Bình Định) cho rằng, ra luật vào lúc này là rất nhạy cảm và nói đến biểu tình là nói đến phản đối, chống đối là chính. “Tự do, dân chủ không phải là biểu tình, không phải cứ cho biểu tình là mới có tự do, dân chủ mà cái chính là chăm lo phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, đó mới là cái cơ bản”, ông Tùng nói.

“Phát biểu như thế là xúc phạm đến dân”

Là người duy nhất ủng hộ dự án luật trong sáng nay, ĐBQH Dương Trung Quốc (Đồng Nai) đã đứng lên trao đổi: “Diễn đàn Quốc hội là nơi để các đại biểu với tinh thần trách nhiệm và nhận thức của mình để phát biểu ý kiến nhằm trao đổi, nhằm thuyết phục hướng tới sự đồng thuận trong những quyết định chung”.
.



ĐB Dương Trung Quốc

Theo ông, ở Quốc hội, đã đề cập đến vấn đề gì cần nghiên cứu đến nơi đến chốn, trường hợp đưa ra những bằng chứng lịch sử dở dang, ngộ nhận là hết sức nguy hiểm.

Ông Quốc dẫn lại nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh nội hàm của “quyền biểu tình” đã được xác lập từ trong lịch sử và cũng nhiều lần được Hồ Chí Minh nhắc đến.

“Chúng ta tự hào trong lịch sử cách mạng Việt Nam, cuộc biểu tình ngày 1/5/1938, hạt nhân lãnh đạo là những người cộng sản tập hợp lực lượng quần chúng đấu tranh đòi tự do, cơm áo hòa bình và ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân. Như thế biểu tình có từ nguồn gốc xa xưa, nhận thức nó như thế nào ở góc độ của một nhà nước, của người cầm quyền”, ông Quốc nói.

Theo ông, ngay trong bản Sắc lệnh 31 ban hành 11 ngày sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập đã viết rằng “công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Hiến pháp năm 1946 không có chữ “biểu tình”. Nhưng trong Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành trước đó đã giải thích: “Xét vì tự do hội họp là một trong những nguyên tắc của chế độ dân chủ cộng hòa, nhưng trong tình thế đặc biệt hiện thời cần phải xem xét kiểm soát những cuộc biểu tình để tránh những sự bất trắc có thể ảnh hưởng đáng tiếc đến việc nội trị hay ngoại giao”.

Ông Quốc khẳng định, phải nhìn biểu tình cả hai cách, đó là một quyền cơ bản của người dân, đồng thời đó là một công cụ hành pháp, công cụ lập pháp để mà thực thi quyền hành pháp. Nhìn một mặt thì chỉ thấy sự hỗn loạn.

Hiến pháp năm 1959 khi bàn về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã đề cập đến quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình và thuật ngữ “biểu tình” đã trở thành một chính văn của luật cơ bản.

Theo ông Quốc, những cuộc biểu tình phát huy cả hai mặt. “Đứng từ lợi ích chính trị của một thể chế, chúng ta thấy cuộc biểu tình chống chính quyền Sài Gòn của phong trào, đặc biệt ở đô thị đã tác động tích cực vào quá trình của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chúng ta thấy những cuộc biểu tình ở miền Bắc là ủng hộ các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước”, ông Quốc phân tích.

Bằng chứng rõ ràng nhất là những năm 1980, khi các hiện tượng diễn ra ở nông thôn Thái Bình, theo cách nhìn của đại biểu Phước là bạo loạn, phải dẹp bỏ thì các nhà lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã trực tiếp đi vào tận tâm bão tìm hiểu để thấy hai mặt của vấn đề rồi từ đó kịp thời điều chỉnh.

Ông Quốc giải thích, việc bày tỏ thái độ của người dân là cần thiết, nó có nhiều diễn đạt khác nhau, nhiều hình thức khác nhau, việc tụ tập đông người mà thực chất là biểu tình là nói đúng tên của nó.

“Chính bởi vì không có luật nên mới dẫn đến tình trạng hỗn loạn. Tôi không tán thành các đại biểu Quốc hội cứ nhân danh nhân dân. Tại diễn đàn Quốc hội chúng ta hãy nhân danh cá nhân mình thôi, trừ khi chúng ta có sự ủy nhiệm, hoặc có điều tra định lượng để nói rằng người dân phản đối, người dân băn khoăn trước định lượng đó, nó dẫn đến tiêu cực xã hội. Nhưng người ta rất mong muốn rằng những tình cảm, cách thể hiện đó đúng lúc, đúng chỗ, nói cách khác là có luật”, ông Quốc nói.

Theo ông, Luật biểu tình là một công cụ để điều chỉnh, bảo đảm những yếu tố tích cực và quyền của người dân.

“Không phải tự nhiên mà Thủ tướng cũng đã rất chủ động đề cập đến việc đề nghị đưa vào chương trình luật pháp của chúng ta về biểu tình. Tôi nghĩ Quốc hội hết sức thận trọng. Phát biểu như thế là xúc phạm đến chính người dân. Chính vì thế càng thấy chúng ta cần phải có Luật biểu tình càng sớm càng tốt. Đây là luật rất nhạy cảm, khó khăn, phải có lộ trình thận trọng, nhưng không vì thế mà phủ nhận để biến chúng ta thành một ốc đảo dị thường”, ông Quốc kết luận.

Lê Nhung – Ảnh: Bình Minh
——–
Dưới đây là toàn văn lời phát biểu của hai đại biểu
Hoàng Hữu Phước và Dương Trung Quốc


Hoàng Hữu Phước – TP Hồ Chí Minh

Kính thưa Quốc hội.

Tôi kính đề nghị Quốc hội loại bỏ Luật lập hội và Luật biểu tình khỏi danh sách dự án luật suốt nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII này vì những lý do như sau:

Thứ nhất, về Luật lập hội, ở Việt Nam Mặt trận Tổ quốc được thành lập năm 1977 trên cơ sở thống nhất ba tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam – Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình Việt Nam.

Hiện nay Mặt trận Tổ quốc có 44 tổ chức thành viên, nếu xếp theo các loại hình tổ chức như đoàn thể chính trị, tôn giáo, từ thiện, xã hội và nghề nghiệp thì có đến 22 hội đoàn trong nhóm nghề nghiệp: từ Hội luật gia, Hội nhà báo đến Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người tàn tật, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập v.v… Nếu như vẫn còn thiếu các hội nghề nghiệp khác mới xuất hiện do sự phát triển của xã hội thì có thể thành lập mới cùng trong quy mô rộng khắp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Nếu Luật lập hội là để tạo nên các đối thủ bên ngoài hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vô hiệu hóa, tiến đến xóa sổ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vậy Luật lập hội có cần không?

Nếu Luật lập hội là để tạo nên các hội mới nằm bên trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như 44 thành viên hiện hữu để làm phong phú hơn tổ chức hùng mạnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vậy Luật lập hội có cần không?

Thứ hai, về Luật biểu tình. Kể từ khi có cuộc biểu tình đầu tiên trong lịch sử loài người năm 1913 do Gandhi tổ chức nhằm phản đối Chính phủ Vương quốc Đại Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan áp bức nhân dân Ấn Độ . Mãi cho đến những năm 60 của thế kỷ trước từ ngữ “biểu tình” mới xuất hiện ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ bắt đầu từ việc chống lại Chính phủ Kennedy đã đẩy mạnh cuộc chiến tranh Việt Nam, rồi phát triển mạnh mẽ thành các cuộc biểu tình chống Chính phủ Mỹ liên tục từ năm 1960 đến 1975, thậm chí tiếp tục ngay cả sau khi Hoa Kỳ thất bại tháo chạy khỏi Việt Nam, biểu tình chống Chính phủ Mỹ đã từ Mỹ lan ra toàn thế giới. Điều nhất thiết phải khẳng định ở đây là ngay từ khởi thủy và cho tới tận ngày nay biểu tình là để chống lại Chính phủ nước mình hoặc chống lại một chủ trương của Chính phủ nước mình, khi 1 triệu người dân Mỹ đổ về Thủ đô Washington tháng 9 năm 2009 họ chống lại Tổng thống Obama, gọi ông là kẻ có dã tâm, biến Hoa Kỳ thành quốc gia xã hội chủ nghĩa, bày ra kế sách bảo hiểm y tế vì người nghèo, biểu tình chưa là hình thức bày tỏ chính kiến chống lại một nước khác ngay cả khi nước đó đang xâm lược nước mình. Cuộc tập hợp khổng lồ tại quảng trường đỏ là để bao quân đoàn Liên Xô tiến thẳng ra chiến trường chiến đấu chống Đức quốc xã và chống bọn nha gian. Để phản đối sự xâm lược của nước khác tiến hành chống lại nước mình chỉ có gia nhập quân đội, dồn tài sản cá nhân cho Bộ Quốc phòng mới là hành động duy nhất, cần thiết. Điều cần làm rõ ở đây là trong tiếng Anh biểu tình, tức là Demonstration luôn để chống Chính phủ nước mình hay một chủ trương của Chính phủ nước mình, còn tập hợp đông người để bày tỏ sự ủng hộ nước mình hay ủng hộ một chủ trương của Chính phủ nước mình, gián tiếp biểu thị sự không đồng tình đối với Chính phủ nước khác thì đó là đức tin hoặc cuộc tuần hành biểu dương lực lượng.

Như vậy, Việt Nam có cần cho cuộc biểu tình chống Chính phủ Việt Nam hay không, chống các chủ trương, chính sách, đạo luật của Chính phủ Việt Nam hay không. Nếu không cần tại sao lại đưa dự án Luật biểu tình, nói rồi nói mãi như thể nó là khuôn vàng, thước ngọc để đo chiều cao, chiều rộng, chiều dài, chiều sâu của cái gọi là tự do dân chủ. Như vậy, cái Việt Nam cần có thể là những quy định về đức tin, về tuần hành đông người. Nhưng liệu Quốc hội có nên dành ra 2 năm và bao tiền của của nhân dân để soạn ra dự án Luật đức tin hay Luật tuần hành hay không. Khi đi ngang qua vài cuộc tập hợp đông người gần đây Thành phố Hồ Chí Minh chống đường lưỡi bò tôi đã nghe những người bị kẹt xe lớn tiếng nguyền rủa, thóa mạ, văng tục đầy đe dọa những người đang tập hợp mà ta gọi là biểu tình ấy. Sự giận dữ này có thể sẽ biến thành gây hấn, bạo loạn, đánh nhau giữa vài nhóm người biểu tình và chống biểu tình, chưa kể những cuộc tập hợp đông người ngoài trời ấy có xâm hại quyền tự do đi lại của người dân, xâm hại quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của người dân, buôn gánh bán bưng, đoan chính, tự trọng kiếm từng đồng tiền nhỏ chứ quyết tâm không làm hành khất, xâm hại thu nhập chính đáng của những cửa hàng hoạt động kinh doanh hợp pháp tại khu vực bị phong tỏa do biểu tình, xâm hại quyền được chăm sóc của công dân khi đau ốm hay khi chuyển dạ sinh con mà xe cứu thương không để đến được hay xâm hại hạnh phúc của công dân khi xe hoa của họ không thể nhúc nhích được trên đường vì tắc đường.

Liệu cái gọi là quyền biểu tình ấy có lớn hơn quyền được kiếm sống của người dân, quyền được ra đời của con cái của người dân, quyền được sử dụng công lộ của người dân, quyền được mưu cầu hạnh phúc của người dân. Câu hỏi được đặt ra ở đây là dự án Luật biểu tình đã tham vấn ý kiến, nguyện vọng của cử tri, công dân là người cao tuổi, cựu kháng chiến, cựu chiến binh, anh hùng các lực lượng vũ trang, anh hùng lao động, tập thể nông dân, tập thể quân đội, công an, những chiến sỹ biên phòng đang trấn giữ biên cương của tổ quốc và hải đảo quốc gia, những nhà tu hành chân chính hay chỉ vì một nhóm nhỏ vài chục, vài trăm sinh viên, học sinh, những người chưa là những công dân có thu nhập, có việc làm. Đa số công dân sẽ không ủng hộ Luật biểu tình vì bản chất dễ bị tổn thương và dễ bị lợi dụng gây ra biến loạn.

Có ý nói rằng ở nước ngoài người ta biểu tình đàng hoàng nên ở Việt Nam cũng sẽ làm được. Ở Việt Nam hiện nay đã 100% đội mũ bảo hiểm khi đi bằng xe máy chưa, có chấm dứt chen lấn ở nơi công cộng chưa, có tham gia giao thông đúng luật chưa. Đó là chưa kể ở đất nước có nền văn học hoàng kim, mặt trời không bao giờ lặn trên cương thổ vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan, cuộc biểu tình tháng 8 vừa qua tại Luân Đôn và lan ra một số thành phố lớn khác đã biến thành bạo loạn, cướp bóc, đốt nhà, làm ô danh đất nước. Cuộc biểu tình chiếm phố Wall suốt 2 tháng nay tại NewYork và hơn 20 thành phố lớn ở Mỹ vừa bị cảnh sát ra tay dẹp do tình trạng bẩn thỉu, mất vệ sinh, ẩu đả, trộm cắp và hiếp dâm xảy ra tại các nơi biểu tình làm ô danh nước Mỹ. Việt Nam chưa phải là siêu cường kinh tế để có thể đài thọ cho một sự ô danh. Đây là ý kiến của tôi mong được sự ủng hộ của Quốc hội. Xin cảm ơn.

————-
Dương Trung Quốc – Đồng Nai

Kính thưa Quốc hội,

Tôi nhận thức diễn đàn Quốc hội là nơi để các đại biểu với tinh thần trách nhiệm và nhận thức của mình để phát biểu ý kiến nhằm trao đổi, nhằm thuyết phục hướng tới sự đồng thuận trong những quyết định chung của Quốc hội. Vì thế, tôi muốn trao đổi ý kiến của một số đại biểu cho rằng Luật Biểu tình là chưa cần thiết.

Ở Quốc hội, đã đề cập đến vấn đề gì cần nghiên cứu đến nơi đến chốn, đưa ra những bằng chứng lịch sử dở dang, ngộ nhận hết sức nguy hiểm. Biểu tình đâu chỉ bắt đầu có từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX, chúng ta đang được hưởng ngày Quốc tế lao động là thành quả của cuộc đấu tranh của những người lao động ở Chicago từ những thế kỷ trước. Chúng ta tự hào trong lịch sử cách mạng Việt Nam, cuộc biểu tình ngày 1/5/1958, hạt nhân lãnh đạo là những người Cộng sản tập hợp lực lượng quần chúng đấu tranh đòi tự do, cơm áo hòa bình và ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân. Như thế biểu tình có từ nguồn gốc xa xưa, nhận thức nó như thế nào ở góc độ của một Nhà nước, của người cầm quyền. Tôi thấy cần nhắc lại bản Sắc lệnh 31 ban hành 11 ngày sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích trong bản Sắc lệnh nội hàm của chữ “biểu tình” để chúng ta thấy được phải nhận thức nó từ hai chiều. Văn bản này viết rằng “công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú đi lại trong nước và ra nước ngoài”, đúng là trong Hiến pháp năm 1946 không có chữ “biểu tình”. Nhưng trong Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành trước đó đã giải thích: “xét vì tự do hội họp là một trong những nguyên tắc của chế độ dân chủ cộng hòa, nhưng trong tình thế đặc biệt hiện thời cần phải xem xét kiểm soát những cuộc biểu tình để tránh những sự bất trắc có thể ảnh hưởng đáng tiếc đến việc nội trị hay ngoại giao nên ra Sắc lệnh này”, tức là Sắc lệnh về biểu tình.

Như thế ta phải nhìn biểu tình cả hai cách của nó, đó là một quyền cơ bản của người dân, đồng thời đó là một công cụ hành pháp, công cụ lập pháp pháp luật để mà thực thi quyền hành pháp. Nếu không chúng ta chỉ nhìn một mặt thì chúng ta chỉ nhìn thấy mặt hỗn loạn của nó thôi. Chúng ta biết rằng cho đến bản Hiến pháp năm 1959 thì chữ “biểu tình” đã được đưa vào trong chính văn, ở Chương III của Hiến pháp năm 1959 khi bàn về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều 25 khi đề cập đến quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình thì thuật ngữ “biểu tình” đã trở thành một chính văn của luật cơ bản. Như thế nó không phải vì xa lạ cả, chúng ta thấy tất cả trong thực tiễn lịch sử những cuộc biểu tình ấy có thể phát huy cả hai mặt, đứng từ lợi ích chính trị của một thể chế chúng ta thấy cuộc biểu tình chống chính quyền Sài Gòn của phong trào, đặc biệt ở đô thị đã tác động tích cực vào quá trình của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chúng ta thấy những cuộc biểu tình ở miền Bắc là ủng hộ các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Còn chữ “mít tinh” cũng chỉ là biến dạng của ngôn ngữ. Nếu chúng ta nhìn vào hiện tượng ngay gần đây gắn liền với thời kỳ đổi mới khi những hiện tượng diễn ra ở tỉnh Thái Bình nơi từng có truyền thống của tiếng trống Tiền Hải. Nếu quan niệm đơn giản như chúng ta, như đại biểu Phước ở Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có cách dẹp bỏ nhưng chính lúc đó các nhà lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã trực tiếp đi vào tận tâm bão tìm hiểu thì thấy hai mặt của vấn đề có những yếu tố kích động nhưng cũng có những yếu tố thực tế, có vấn đề trong bộ máy lãnh đạo cầm quyền, vì vậy dẫn đến điều chỉnh một cách thích hợp.

Bây giờ chúng ta đang chứng kiến những sự kiện trong quá trình hội nhập thế giới, việc biểu tỏ thái độ của người dân là cần thiết, nó có nhiều diễn đạt khác nhau, nhiều hình thức khác nhau, việc tụ tập đông người mà thực chất là biểu tình, ta nói đúng tên của nó. Chính bởi vì không có luật nên mới dẫn đến tình trạng hỗn loạn. Tôi không tán thành các đại biểu Quốc hội cứ nhân danh nhân dân. Tại diễn đàn Quốc hội chúng ta hãy nhân danh cá nhân mình thôi, trừ khi chúng ta có sự ủy nhiệm, hoặc có điều tra định lượng để nói rằng người dân phản đối, người dân băn khoăn trước định lượng đó, nó dẫn đến tiêu cực xã hội. Nhưng người ta rất mong muốn rằng những tình cảm, cách thể hiện đó đúng lúc, đúng chỗ, nói cách khác là có luật. Luật biểu tình là một công cụ để chúng ta điều chỉnh, chúng ta bảo đảm những yếu tố tích cực của nó và chúng ta bảo đảm quyền của người dân, thóa mạ những người biểu tình như thế chúng ta đi ngược lại những tuyên bố chính thức của nhà nước, đó là những người yêu nước, cách biểu thị của họ không thích hợp trong hoàn cảnh này vì chúng ta chưa có luật. Không phải tự nhiên mà Thủ tướng Chính phủ cũng đã rất chủ động đề cập đến việc đề nghị đưa vào chương trình luật pháp của chúng ta về biểu tình. Tôi nghĩ Quốc hội chúng ta hết sức thận trọng. Phát biểu như thế là xúc phạm đến chính người dân. Chính vì thế càng thấy chúng ta cần phải có Luật biểu tình càng sớm càng tốt. Đương nhiên đây là luật rất nhạy cảm, khó khăn, chúng ta phải có lộ trình thích hợp, thận trọng, nhưng không vì thế mà phủ nhận để biến chúng ta thành một ốc đảo dị thường trong thế giới hiện nay. Xin cảm ơn Quốc hội.

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

Quái gian, quái càn, quái nghị

Quái gian, quái càn, quái nghị!…
Posted on 16/11/2011

Hà Văn Thịnh - Trăm thứ bộn bề thời vật vã sống, vật vã đau buồn, vật vã với thở dài vẫn chưa là đủ với tất cả những điều quái đản xảy ra chỉ trong một tuần của “nền văn minh” hiện đại nước nhà!


Bắt đầu là chuyện quái kiệt dối gian của ông chúa đảo Tuần Châu khi báo chí loan tin rằng ông đã nhắn đến 110.000 tin nhắn bầu chọn cho Vịnh Hạ Long trở thành kỳ quan (không biết ban giám khảo có trừ điểm vì sự dối trá?). tác giả Hiệu Minh phanh phui sự thật rằng nếu không có tứ khoái thì thời gian nhắn tin chiếm đến ba tẳm lẻ sáu ngày, còn nếu có nhất khoái trở lên thì ít nhất phải gần 400 ngày. Thời gian đâu để nhắn tin trong vòng vài chục ngày? Gian tham, háo danh, ngông cuồng như thế chẳng trách đâu cái nỗi đau lẹt đẹt của văn hóa – kinh tế cứ phải nhắc nhở mãi hoài.



Chuyện quái làm càn, xằng bậy bất chấp dư luận, lương tâm, điều hay, lẽ phải lại liên quan (có thể chỉ là gián tiếp, có thể ông ta nỏ biết?) đến… ông bộ trưởng bộ VH-TT-DL! Không còn gì để nói khi một đứa trẻ mới 5 tháng tuổi lại đủ cả trình độ ngồi (cho vững), biết (cái Hạ Long), thành thục (hai tay), siêu thông minh (về nắm bắt kiến thức máy tính hiện đại), làm đẹp (trang điểm, PR cho cả nhà) và sau hết là học giỏi (biết cả mặt số, mặt chữ) để làm cái việc mà theo người ta nghĩ, mọi trái tim “yêu nước” phải làm là bầu chọn cho Hạ Long trở thành đệ nhất di sản tự nhiên của thế giới. Chẳng lẽ người ta không nghĩ rằng nếu bạn bè quốc tế biết thì hai từ xấu hổ chỉ mới là món hàng xa xỉ, nhục nhã may ra là món đồ tạm ngó được, tận cùng nỗi ê chề, đau đớn vẫn chưa đủ để thốt thành lời?

Nhưng, có lẽ đỉnh cao của sự coi thường cử tri, coi thường vai trò nghị sĩ, khinh miệt mọi người có chút ít học hành phải thuộc về quái nghị sĩ Nguyễn Minh Hồng. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi chưa từng biết một nghị sĩ nào có thể làm nhăng, nói càn, dốt nát và vô liêm sỉ đến thế! Chẳng lẽ ông nghị Hồng coi Quốc hội là chốn để vui đùa hay sao khi thảo luật chỉ có hai trang rưỡi, trình luật thì nói là chẳng biết cái luật đó để làm gì? Ở bất kỳ nước nào có chút nhỏ nhoi văn hóa trên thế giới này, nghị sĩ mà như thế thì chỉ có mà đi dọn rác. Thật là xót xa, nghẹn ngào để tự nói rằng với nước ta, mọi điều quái gở vẫn cứ ung dung tự tại như thường. Người dân biết tin vào ai khi cái ác, cái gian, cái dốt, cái cuồng ngông cứ nghễu nghện ở trên chóp của quyền lực? Tại sao Quốc hội không có Ủy ban nào can thiệp, chấn chỉnh hành vi coi thường luật pháp, thể chế ấy? Để một người như thế trong cơ quan lập pháp chẳng khác chi khinh miệt chín chục triệu con người.



Đừng nói nhiều về những điều cao xa tỷ như 5 năm nữa giáo viên có thể sống bằng lương, 5 năm nữa lạm phát sẽ giảm, 9 năm nữa lương công chức thoải mái chi tiêu… Người dân chúng tôi chỉ cần các vị làm sao đó cho có kết quả cụ thể, rõ ràng – lời hứa càng ngắn ngày càng tốt; làm sao đó cho nỗi đau về sự giày vò bởi nhục nhã và hổ thẹn ít đi. Và, quan trọng nhất, làm sao để lãnh đạo phải là những người được nhân dân kính phục, tin tưởng chứ không phải là khinh thường, chán gớm cái sự đời…

Huế, 15.11.2011.

Hà Văn Thịnh

VỤ ĐÁNH CHẾT ÔNG TRỊNH XUÂN TÙNG: CẦN XỬ ĐÚNG NGƯỜI ĐÚNG TỘI

VỤ ĐÁNH CHẾT ÔNG TRỊNH XUÂN TÙNG: CẦN XỬ ĐÚNG NGƯỜI ĐÚNG TỘI


Vụ đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng:
Cần xử đúng người, đúng tội
Nguyễn Tường Thụy
Yêu cầu xử đúng người, đúng tội luôn được đặt ra đối với các cơ quan tư pháp. Nhưng việc xử có nghiêm minh theo đúng luật pháp hay không lại tùy thuộc vào việc quan tòa có thiên vị hay không, có bị sự chỉ đạo từ một thế lực nào đó hay không lại là chuyện khác...
*


Theo thông tin cách đây 2 tuần, ngày 17-11, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên xét xử vụ nguyên trung tá công an Nguyễn Văn Ninh (SN 1958, công tác tại Công an phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội) đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng (SN 1958, ở 525 Trần Khát Chân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội).

Tuy nhiên, căn cứ vào những thông tin gần đây, phiên tòa có thể lùi lại.

Ông Trịnh Xuân Tùng bị đánh vào lúc 10 giờ ngày 28/2/2011 sau đó tử vong vào khoảng 6 giờ 30 phút ngày 8/3/2011 tại bệnh viện Việt Đức.

Trong thời gian qua, cô Trịnh Kim Tiến, con gái ông Trịnh Xuân Tùng và gia đình đã nỗ lực vận động để đòi lại công lý cho người đã chết.

Đây là một trong những vụ án gây phẫn nộ trong dư luận. Sự phẫn nộ không chỉ là ở chỗ trong những năm gần đây đã có rất nhiều vụ người dân chết khi rơi vào tay công an mà còn do tính chất độc ác của nó.

1. Tóm lược vụ việc:

Vụ ông Trịnh Xuân Tùng bị công an đánh chết đã được thông tin rất nhiều trên các phương tiện truyền thông. Ít có vụ án nào được sự quan tâm của công luận đến như thế.

Theo anh Phạm Quang Hùng thì sáng 28/2/2011, ông Tùng thuê anh chở đến bến xe Giáp Bát. Khoảng hơn 10 giờ, khi xe máy tới cổng sau bến xe Giáp Bát, ông Tùng tháo mũ bảo hiểm móc điện thoại ra gọi xem bạn mình đã đến chưa.

Lúc xe sắp đi vào bến thì trung tá công an Nguyễn Văn Ninh chạy ra chặn đầu xe. Một tốp 2,3 tự quản viên giữ xe, giật chìa khóa. Sau đó, họ lôi hai người vào bến để lập biên bản xử phạt lỗi không đội mũ bảo hiểm. Khi anh Hùng yêu cầu công an Ninh giải thích rõ tại sao anh lại bị lỗi không đội mũ bảo hiểm thì bị công an này tóm cổ áo. Thấy vậy, ông Tùng đã gạt tay Ninh ra khỏi cổ anh Hùng, nói: “Anh là Công an, anh không thể xử sự như vậy được”. Trung tá Ninh quay sang xô đẩy dùng dùi cui đánh ông Tùng. Liền sau đó, một số dân phòng lao vào giúp sức đè ông Tùng xuống đất. Anh Hùng bị một người giữ chặt không cho can ngăn, đến lúc buông ra thì anh đã thấy anh Tùng nằm gục dưới đất và bị mấy người đè lên để bập khóa số tám.

Ông Bạch Chí Cường, người mà ông Tùng hẹn cùng vào Miền Nam cho biết: Tôi thấy một số người cùng nhảy vào đấm đá ông Tùng. Sau đó họ khóa tay ông Tùng vào gốc cây rồi gọi điện cho xe thùng chở về trụ sở Công an phường”

Gia đình ông Tùng được báo tin công an đánh ông Tùng không lết nổi, họ đã khiêng ông về trụ sở Công an phường Thịnh Liệt rồi.

Ông Minh, bạn thân của ông Tùng cho biết, ông bị trực ban ngăn cản không cho đưa ông Tùng đi bệnh viện. Người trực ban nói: “Kể cả anh có gọi xe cấp cứu đến, chúng tôi cũng không cho đưa người đi”.

Theo lời kể của cô Trịnh Kim Tiến thì trực ban hôm đó trả lời hết sức vô trách nhiệm rằng hiện tại phường đi họp không có ai giải quyết. Khi nào phường có người, gia đình muốn cho đi cấp cứu thì chúng tôi sẽ cho đi, dù lúc đó trong phường có rất nhiều người. Họ còng ông Tùng trên ghế, luôn mồm nói ông không bị sao và bảo ông Tùng ăn vạ. Cô Tiến van xin đi đưa bố đi cấp cứu họ không cho, xin đút phở cho bố, họ cũng không cho. Họ kiểm tra bát phở sau đó bỏ lên bàn.

Mãi tới khoảng 21h30, tức là 12 giờ sau kể từ khi bị đánh, ông Tùng mới được đưa đi bệnh viện bằng xe tải. Ông Tùng bị còng tay đến tận phòng cấp cứu của bệnh viện Bạch Mai. Những công an đưa ông Tùng đến bệnh viện nói với các bác sĩ đây là tội phạm cần phải canh giữ. Theo cô Tiến, chính vì công an nói ông Tùng là tội phạm nên các bác sĩ bệnh viện Bạch Mai rất thờ ơ trong việc khám và chữa trị cho bố cô.

Ông Tùng được đưa vào bệnh viện trong tình trạng gẫy 2 đốt sống cổ, tủy bị tổn thương. Vì quá đau đớn, ông không đồng ý mổ, đòi dứt các ống ra để ra đi cho thanh thản. Tuy nhiên, gia đình vẫn quyết định mổ cho ông với hy vọng còn nước còn tát.

Ông chết tại bênh viện Việt Đức, sau 8 ngày kể từ khi bị đánh.

2. Bỏ sót tội phạm?

Ban đầu, công an thành phố HN đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự tội “cố ý gây thương tích”, còn gia đình ông Trịnh Xuân Tùng yêu cầu khởi tố về tội danh “giết người”. Cuối cùng thì họ khởi tố Nguyễn Văn Ninh về tội danh “Làm chết người trong khi thi hành công vụ”

Qua diễn biến của vụ việc, ta thấy không chỉ mình Nguyễn Văn Ninh đánh ông Trịnh Xuân Tùng mà có ít nhất 3 dân phòng tham gia đánh. Sau đó công an phường Thịnh Liệt có những hành động cản trở không cho ông Tùng đi cấp cứu, không cho ăn.

Như vậy, việc khởi tố chỉ mình Nguyễn Văn Ninh là bỏ sót tội phạm.

3. Bỏ sót tội danh?

Nguyễn Văn Ninh bị khởi tố về tội “Làm chết người trong khi thi hành công vụ”. Thế nhưng qua sự việc diễn ra sau khi đánh ông Trịnh Xuân Tùng, cho thấy những người tham gia đánh ông Tùng và những người đang thực thi nhiệm vụ ở công an phường Thịnh Liệt đã tỏ ra rất căm thù ông, không hề lo lắng đến việc ông thương tích quá nặng do bị đánh như nhất quyết không cho đưa ông Tùng đi cấp cứu bất chấp lời van xin của gia đình, cho là ông Tùng ăn vạ, không cho ông ăn, còng tay ông đến tận bệnh viện … Trong thời gian từ khi nhập viện đến khi ông Tùng chết, Nguyễn Văn Ninh và nhóm công an, dân phòng đã đánh ông Tùng không một ai đến thăm.

Cần phải đặt ra câu hỏi: “Nếu ông Tùng được đưa đi viện kịp thời, nếu công an không cấm người nhà chăm sóc ông, cho phép ông ăn thì ông Tùng có cơ hội sống không?

Điều 102 Bộ luật hình sự qui định về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng:

1. Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;
b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Thế nhưng, Nguyễn Văn Ninh và những kẻ tòng phạm không phải vô ý mà là cố ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của ông Tùng nhưng không cứu giúp.

Như vậy, cơ quan cảnh sát điều tra đã bỏ sót tội danh.

3. Công lý và sự thật được phải được tôn trọng

Do tính chất của diễn biến sự việc mà vụ ông Trịnh Xuân Tùng bị đánh chết đã gây nên bức xúc rất lớn trong dư luận. Nếu họ đánh ông gần chết, lo đến trách nhiệm của mình mà biết tội, sốt sắng đưa ông Tùng đi cấp cứu ngay, cùng gia đình chăm lo cho sức khỏe cho ông thì chưa chắc ông đã chết và dư luận không tới mức phẫn nộ như thế.

Sự đòi hỏi của nhân dân trong mỗi vụ trọng án là giết người phải đền mạng. Tuy nhiên, việc xử như thế nào lại phải căn cứ vào pháp luật.

Yêu cầu xử đúng người, đúng tội luôn được đặt ra đối với các cơ quan tư pháp. Nhưng việc xử có nghiêm minh theo đúng luật pháp hay không lại tùy thuộc vào việc quan tòa có thiên vị hay không, có bị sự chỉ đạo từ một thế lực nào đó hay không lại là chuyện khác. Qua nhiều vụ án, tình trạng “quan xử theo lễ, dân xử theo hình” là một thực tế, đã ăn vào tiềm thức của nhân dân. Trong việc đưa tin những vụ án mà tội phạm là công an hay quan chức nhà nước, báo chí cũng rất dè chừng, chỉ đưa tin một phần sự thật, hoặc dùng những từ ngữ nhẹ nhàng nhất để làm giảm đi tính chất nghiêm trọng của nó. Dĩ nhiên, điều này làm mất lòng tin của dân đối với những người cầm bút, cầm cán cân công lý và nghiêm trọng hơn là làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với chế độ.

Hiện nay, trên báo chí đang sôi nổi thảo luận về việc sửa lại truyện cổ tích Tấm Cám với lý do là sự trả thù của Tấm tàn nhẫn quá. Tôi thì thiên về phía nên giữ nguyên truyện cổ tích. Thứ nhất, đã là truyện dân gian thì cứ để nguyên như thế, đừng có thò tay vào sửa. Thứ hai, sự trả thù của Tấm nói lên nguyện vọng của nhân dân: cái ác phải được trừng trị và trừng trị như thế mới làm xứng đáng. Nhân nào quả ấy. Mẹ con Cám chẳng đã truy cùng giết tận, ba lần giết Tấm đó sao?

Trở lại vụ ông Trịnh Xuân Tùng, ông bị đánh hết sức tàn ác với tính chất côn đồ. Ông cũng đã ba lần bị tước đi cơ hội sống: bị đánh gãy cổ, không cho đi cấp cứu kịp thời, không được ăn. Qua đó mới hiểu vì sao nhân dân quá phẫn nộ đối với vụ án này.

Khó có thể nói rằng, Nguyễn Văn Ninh phải chết theo đòi hỏi “giết người đến mạng”. Nguyện vọng của công chúng có thể chính đáng nhưng việc xử phải tuân theo pháp luật, cho dù pháp luật nước ta còn nhiều bất cập (ví dụ, khung hình phạt đối với tội danh làm chết người khi thi hành công vụ nhiều ý kiến cho là còn quá nhẹ, không đủ răn đe).

Vì thế, tôi không thể nói lên nguyện vọng của mình mà phải căn cứ vào pháp luật. Trong vụ ông Trịnh Xuân Tùng bị đánh chết, cơ quan cảnh sát điều tra cần khởi tố thêm tội phạm. Còn tội danh, nếu không khởi tố Nguyễn Văn Ninh về tội giết người” theo yêu cầu của gia đình thì cần thêm tội danh “không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng”.

Tôi mong và chúc Trịnh Kim Tiến tìm được công lý cho cha.

15/11/2001
Nguồn: Blog Tường Thụy

Trang